Buôn Lé A, Xã Krông Pa, huyện Sơn Hòa (tỉnh Phú Yên) hiện còn gìn giữ được nhiều nhạc cụ truyền thống như cồng chiêng, đàn Goong, đàn T’ní, kèn Đinh Năm, trống đôi… Một trong những “cây cao bóng cả” góp công lớn trong việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc của đồng bào DTTS nơi đây phải kể đến già làng Ma B’Hoa.
Theo chia sẻ của già làng Ma B’Hoa, ngay từ lúc còn nhỏ ông đã say mê tiếng đàn Goong, bởi vì âm thanh của nó ngọt ngào như lời ru của mẹ, như chim K’Puc hót lảnh lót, nhẹ nhàng như làn khói chiều trên mái nhà sàn. Từ đó, ông đã theo chân các bậc cao niên trong buôn để học cách chơi loại nhạc cụ truyền thống này. Đã mấy chục năm qua, ông Ma B’Hoa xem đàn Goong như một người bạn tâm tình, giúp ông truyền tải những cái hay, cái đẹp trong văn hoá tinh thần của dân tộc Ê Đê tới các thế hệ sau.
Theo ông Ma B’Hoa, đàn Goong (còn gọi là Ting Ning) được làm bằng vỏ bầu, gỗ, nứa và dây bằng sắt. Thân đàn được làm từ một ống lồ ô thật già, hong (phơi) khô, phía trên thân đàn được dùi 11 lỗ, cắm 11 que (suốt) bằng gỗ được trang trí như lông chim để lên dây. Phía dưới gắn 2 quả bầu khô, to tròn đã được lấy ruột để làm hộp cộng hưởng. Phần dưới cùng của thân đàn được khứa những rãnh nhỏ làm nơi mắc dây. Mỗi dây là một âm thanh không có phím bấm.
Để chơi đàn Goong, người ta chống gốc đàn vào bụng, hai bàn tay vừa đỡ thân đàn, vừa dùng ngón tay để gảy trên dây, làm cho dây rung lên. Âm thanh đàn Goong được truyền từ dây qua thân đàn đến bầu cộng hưởng. Nhờ sự cộng hưởng của quả bầu khô tạo ra âm thanh thánh thót, vang xa, hòa âm dày đặc có sức truyền cảm như tiếng lòng của người đồng bào dân tộc. Cũng bởi âm thanh đa dạng ấy mà đàn Goong được các chàng trai sử dụng để chơi độc tấu hoặc dùng để đệm cho nhau hát và còn là phương tiện để nói lên tâm sự, cảm xúc dành cho cô gái.
“Với thanh âm rộn ràng, tiếng đàn Goong cũng không thể thiếu trong những dịp vui, lễ hội. Tiếng đàn Goong đã tạo nên niềm vui, sự hứng khởi, gắn kết mọi người lại gần nhau hơn, tạo nên không khí lễ hội của cả buôn làng. Việc bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc của đồng bào DTTS sẽ góp phần giúp địa phương có thêm hướng đi mới trong phát triển du lịch”, ông Ma B’Hoa chia sẻ thêm.
Cùng chung niềm đam mê, anh Rơ Chăm Y Thiêu (ở xã Cà Lúi, huyện Sơn Hòa) cho biết, vì yêu thích đàn Goong mà anh đã theo những nghệ nhân lớn tuổi trong buôn làng để học đàn hát, vừa học hỏi kinh nghiệm trình diễn và chế tác đàn. Càng tìm hiểu lại càng đam mê, nên đàn Goong đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của anh suốt thời gian qua.
“Với âm thanh rộn ràng, tiếng đàn Goong là nhạc cụ không thể thiếu trong những dịp lễ hội của chúng tôi. Để chơi đàn Goong, người dùng cũng phải kỳ công, vừa chống gốc đàn vào bụng, hai bàn tay vừa đỡ thân đàn, vừa dùng ngón để gảy. Mong rằng, trong thời gian tới, các bạn trẻ trong cộng đồng dân tộc Ê Đê sẽ nuôi dưỡng niềm đam mê với loại nhạc cụ dân tộc độc đáo này”, anh Rơ Chăm Y Thiêu nói.
Còn nhà nghiên cứu dân gian Ka Sô Liễng (người Chăm Hroi - ở buôn Ma Giỏ, thôn Kiến Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện Sơn Hòa) lại chọn cho mình công việc nghiên cứu trường ca, sử thi để ghi chép lại những nét đẹp văn hoá trong cộng đồng các DTTS. Những bản trường ca mà ông sưu tầm được đã khơi dậy tình yêu đồng bào, con suối, ngọn núi, cái rẫy, nhà sàn như: “Chi Lơ Kok”; “Trường ca Chi-Liêu”; “Chi Bri, Chi Brit”…
Với tinh thần làm việc say mê, tâm huyết, nhà nghiên cứu Ka Sô Liễng đã cho công bố nhiều sử thi như: Chi Lơ Kok; Xinh Chi Ôn (tập I), Xinh Chi Ôn (tập II), Hơbia Tulúi Kalipu, Tiếng cồng ông bà Hbia Lơđă… Sử thi ông sưu tầm hầu hết là sử thi anh hùng với đề tài chiến tranh, trong đó phổ biến và tiêu biểu hơn cả là sử thi Chi Lơ Kok. Chi Lơ Kok phản ánh nhiều mặt về vùng đất, con người và xã hội của các dân tộc Ê Đê, Ba Na từ bao đời nay là xứ sở xinh đẹp, giàu có.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ka Sô Liễng chia sẻ, mong muốn lớn nhất của ông là đồng bào các dân tộc hiểu được cái hay, cái đẹp của di sản văn hóa dân tộc chứa đựng trong các bộ sử thi. Chỉ khi hiểu được giá trị di sản thì mọi người mới có trách nhiệm và ý thức bảo tồn, gìn giữ văn hóa của cha ông. Mới đây, ông Ka Sô Liễng vinh dự được nhận danh hiệu Nghệ nhân ưu tú.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng Thái, Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Phú Yên, trong những năm qua, ngành Văn hóa thực hiện nhiều đề án, kế hoạch, chương trình của UBND tỉnh về bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa miền núi như: Bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các DTTS Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; Hoạt động văn hóa, nghệ thuật phục vụ vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng DTTS giai đoạn 2021 - 2030; Bảo tồn, phát huy giá trị dân ca, dân vũ, dân nhạc của các DTTS gắn với phát triển du lịch giai đoạn 2022 -2023.
Định kỳ 3 năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức Ngày hội Văn hóa, Thể thao và Du lịch các dân tộc thiểu số trên địa bàn. Đây là dịp để cộng đồng DTTS tái hiện lại cuộc sống hằng ngày như: Lễ mừng lúa mới, lễ cầu mưa và các hoạt động văn hoá ý nghĩa khác.
Bà Nguyễn Thị Hồng Thái chia sẻ thêm, tháng 7/2023, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã xây dựng kế hoạch thực hiện Dự án Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số gắn với phát triển du lịch trên địa bàn giai đoạn 2023-2025. Đây là Dự án 6 - một trong những dự án thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021-2030.
Thực hiện Dự án 6, thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng DTTS, miền núi giai đoạn 2021-2030, ngành Văn hóa tỉnh Phú Yên sẽ phối hợp với các địa phương phục dựng Lễ hội Xuống đồng của người Tày, Nùng tại huyện Sông Hinh; tổ chức lớp truyền dạy cồng chiêng tại huyện Sơn Hòa; xây dựng mô hình tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa đặc thù dân tộc thiểu số tại huyện Sơn Hòa; xây dựng câu lạc bộ sinh hoạt văn hóa dân gian tại vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tại huyện Đồng Xuân; tổ chức lớp tập huấn dệt thổ cẩm tại huyện Đồng Xuân, huyện Sông Hinh…
Các hoạt động này đã góp phần bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống của các đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh, từng bước thu hẹp khoảng cách về thụ hưởng văn hóa giữa vùng đồng bào dân tộc thiểu số ở miền núi với vùng đồng bằng, đô thị.