Người nắm giữ sử thi
Tiếp chúng tôi trong ngôi nhà những sách và sách giữa vườn rừng lộng gió ở thôn Kiến Thiết, xã Ea Chà Rang, huyện Sơn Hòa (tỉnh Phú Yên), Ka Sô Liễng hoạt bát hẳn lên khi nói về sử thi. Sử thi ra đời và tồn tại trong đời sống các dân tộc anh em không chỉ với vị trí một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một pho lịch sử, cuốn bách khoa toàn thư về dân tộc đó. Cùng với cồng chiêng, sử thi là di sản đặc trưng của văn hóa các dân tộc ở Tây Nguyên cũng như các địa bàn miền núi phía Tây Phú Yên. Năm 2023, đánh dấu 96 năm kể từ khi công sứ Pháp Sabachie phát hiện, sưu tầm và công bố bộ sử thi đầu tiên của người Ê Đê “Bài ca chàng Đam San - Klei khan Dam San” vào năm 1927. Sau sử thi này, hàng loạt sử thi khác của các DTTS nơi đây được tìm thấy, xuất bản.
Nhà nghiên cứu Ka Sô Liễng lý giải, sử thi thường mang yếu tố kỳ ảo, nhân vật trung tâm của sử thi là những người anh hùng mang vẻ đẹp gắn liền với núi rừng, sông suối, cây cối, chim muông... Họ đại diện tiêu biểu cho lòng dũng cảm, trí tuệ, tài năng của cộng đồng. Ngoài ra, sử thi còn mô tả sự hình thành của các buôn làng, cuộc chiến oanh liệt giữa các bộ tộc để bảo vệ cộng đồng, tình yêu đôi lứa. Chẳng thế mà người Ấn Độ đã từng tự hào nói rằng “Cái gì không có trong sử thi Mahabharata thì cũng không thể tìm ở đâu trên đất nước Ấn Độ”.
“Ông Ka Sô Liễng là một nhà nghiên cứu có vốn hiểu biết sâu rộng về văn hóa dân gian. Gần cả cuộc đời, ông đã cống hiến tận tụy cho cách mạng, cho việc lưu giữ sử thi. Thế nhưng khi nói về những đóng góp của mình, ông Ka Sô Liễng luôn khiêm nhường. Ông là tấm gương sáng về nhân cách sống”.
PGs.Ts. Nguyễn Thị Thu Trang Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian và văn nghệ các DTTS Phú Yên, Nguyên Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Phú Yên
Ngược dòng thời gian, Ka Sô Liễng nhớ lại thời trai trẻ tập kết ra Bắc học Trường Lý luận nghiệp vụ văn hóa Hà Nội, rồi Khoa Đạo diễn Trường Đại học Sân khấu - Điện ảnh Hà Nội. Thời gian này, ông đã bén duyên mê mẩn với những bộ sử thi “Bài ca chàng Đam San”, “Xing Nhã”, “Đăm Di” của đồng bào Ê Đê; “Đẻ đất đẻ nước” của người Mường và sử thi “Đăm Noi” của đồng bào Ba Na.
Nhưng phải đến khi Phú Yên tái lập tỉnh, được chuyển về quê hương công tác ở vị trí Phó Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh, Ka Sô Liễng mới có điều kiện đi điền dã, dành trọn tình yêu hơn cho sử thi. Nhưng giai đoạn huy hoàng nhất mà ông dành toàn tâm, toàn trí cho loại hình văn hóa dân gian này là khi về nghỉ hưu ở Ea Chà Rang.
Không đổ mồ hôi như cày cuốc, gieo trồng trên nương rẫy, thế nhưng công việc tìm kiếm, sưu tầm sử thi qua lời kể của những người già cũng vất vả không kém.
Ka Sô Liễng tâm sự, các Nghệ nhân dân gian còn nhớ và kể sử thi cứ lần lượt về phía bên kia núi mang theo “kho báu” di sản về trời, điều đó khiến ông rất trăn trở. Ông lặn lội đi tìm người già để nghe kể lại bằng các hình thức thu âm và ghi chép. Càng làm, ông càng say. Có buôn, ông trở đi trở lại nhiều lần mà vẫn chưa ghi chép xong một bài trường ca. Có khi quay lại thì nghệ nhân đã qua đời.
Như cánh chim Kơ tia không mỏi
Ka Sô Liễng còn lưu giữ nhiều cuốn sổ tay đã ngả vàng với những ghi chép còn chưa đến đoạn kết. Ông cất công lặn lội về các huyện Sông Hinh, Đồng Xuân, các xã vùng cao Sơn Hòa và các buôn làng xa xôi ở Tây Nguyên. Nhớ nhất là chuyến ông đi bộ cả trăm cây số, lang thang tận Đắk Lắk, Gia Lai rồi ngã bệnh luôn ở trên đó, người nhà phải đi tìm, chở về Tuy Hòa điều trị. Nhưng rồi, khỏe lại, ông lại lên đường, tiếp tục cần mẫn với công việc gìn giữ vốn quý cho muôn đời sau này.
Từ năm 1995 đến nay, ông đã có các tác phẩm khảo cứu đạt giải thưởng từ tỉnh đến Trung ương. Những bản trường ca tên tuổi sưu tầm được của ông đã khơi dậy tình yêu đồng bào, con suối, ngọn núi, cái rẫy, nhà sàn như: “Chi Lơ Kok”; “Trường ca Chi-Liêu”; “Chi Bri, Chi Brit”…
Trong hơn 10 năm, với tinh thần làm việc say mê, tâm huyết, nhà nghiên cứu Ka Sô Liễng đã cho công bố đến 6 sử thi: Chi Lơ Kok; Xinh Chi Ôn (tập I), Xinh Chi Ôn (tập II), Hơbia Tulúi Kalipu, Trường ca Chi blơng, Tiếng cồng ông bà Hbia Lơđă… Sử thi ông sưu tầm hầu hết là sử thi anh hùng với đề tài chiến tranh, trong đó phổ biến và tiêu biểu hơn cả là sử thi Chi Lơ Kok. Chi Lơ Kok phản ánh nhiều mặt về vùng đất, con người và xã hội của các dân tộc Ê Đê, Ba Na từ bao đời nay là xứ sở xinh đẹp, giàu có.
Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Ka Sô Liễng tâm sự, mong muốn lớn nhất của ông là đồng bào các dân tộc hiểu được cái hay, cái đẹp của di sản văn hóa dân tộc chứa đựng trong các bộ sử thi. Khi hiểu được giá trị di sản mới có trách nhiệm và ý thức bảo tồn, gìn giữ văn hóa của cha ông.
Mới đây, ông Ka Sô Liễng vinh dự được nhận danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú. Đây là phần thưởng cao quý của Nhà nước dành tặng cho tài năng và cống hiến lớn lao trong lĩnh vực nghệ thuật, văn hóa dân gian của ông. Trong chiều sâu cội nguồn văn hóa, tầm vóc và đóng góp của ông được nhiều người ví như cây Kơ nia vươn cao trước gió, như cánh chim Kơ tia không mỏi…