Trong những năm qua, vùng Trung du miền núi phía Bắc (TD&MNPB) cũng đã thực hiện nhiều giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, huy động đa dạng và sử dụng hiệu quả các nguồn lực đầu tư. Tuy nhiên, các giải pháp vẫn chưa tạo ra sự khác biệt, nâng cao tính cạnh tranh, thiếu tính liên kết vùng....để tạo bước đột phá trong quá trình phát triển...
Là một trong 06 vùng kinh tế của Việt Nam, Trung du và Miền núi phía Bắc (TD&MNPB) là vùng có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của cả nước. Có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển, lại được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước, tuy nhiên, nhiều năm qua, đây vẫn đang là vùng lõi nghèo và khó khăn nhất cả nước.
Để giải quyết tận gốc vấn đề di cư tự phát, giải pháp căn bản là những tỉnh “đầu đi” cần phải quản lý dân cư thật tốt. Đồng thời, cần tăng cường nguồn lực, thực hiện tốt các chính sách, hỗ trợ, tạo sinh kế bền vững, ổn định đời sống cho đồng bào.
Để giải quyết những vấn đề phát sinh từ áp lực của tình trạng di cư tự phát, những năm qua, các tỉnh Tây Nguyên đã xây dựng và triển khai hàng chục dự án bố trí, sắp xếp ổn định dân di cư cho đồng bào DTTS thuộc diện này. Tuy nhiên, những dự án đó mới chỉ là giải pháp giải quyết phần ngọn của vấn đề.
Khi các địa phương không thể giải quyết được tận gốc các vấn đề phát sinh do áp lực lớn của tình trạng di cư tự phát gây nên, thì những hệ lụy như đã được dự báo tất yếu xảy ra là điều khó tránh khỏi. Trong đó, đặc biệt là tình trạng lấn chiếm đất rừng, phá rừng và đói nghèo…
Tại dự thảo Nghị định về chính sách đầu tư bảo vệ và phát triển rừng, chế biến và thương mại lâm sản trong lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề xuất chính sách trợ cấp gạo trồng rừng thay thế nương rẫy.
Tình trạng di cư tự phát đến Tây Nguyên, với số lượng dân rất lớn kéo dài nhiều năm, chủ yếu là đồng bào DTTS đã tác động mạnh đến quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, phá vỡ quy hoạch ổn định dân cư. Điều này khiến các địa phương rơi vào trạng thái thụ động, loay hoay trong việc tìm phương án giải quyết.
Nhiều năm qua, hàng nghìn người từ các tỉnh phía Bắc rời bỏ quê hương, mang theo khát vọng đổi đời nơi miền đất đỏ Bazan, tạo nên dòng chảy dân di cư tự phát đổ về các tỉnh Tây Nguyên. Các cuộc di cư tự phát ào ạt không những kéo theo nhiều hệ lụy với địa phương đến, mà nhiều người DTTS di cư tự phát còn rơi vào thảm cảnh, hoàn cảnh khó khăn bủa vây, đói nghèo đeo bám.
Dù đã đạt được một số kết quả bước đầu trong sắp xếp, ổn định dân cư nhưng hiện trên địa bàn tỉnh Hà Giang vẫn còn khoảng 10 ngàn hộ dân đang sống trong vùng có nguy cơ sạt lở, thiên tai. Nguồn lực đầu tư hạn chế, nhỏ lẻ, nhu cầu lớn, thiếu quỹ đất để sắp xếp dân cư… đang là những trở ngại lớn trong công tác sắp xếp, bố trí, quy hoạch dân cư ở Hà Giang.
Giai đoạn 2011 - 2020, thực hiện đề án sắp xếp, ổn định dân cư, tỉnh Hà Giang đã hoàn thành việc di chuyển hàng chục ngàn hộ dân sống ở vùng nguy hiểm đến nơi ở mới an toàn. Với việc di dân xen ghép và ổn định tại chỗ, người dân di chuyển đến nơi ở mới an toàn, đồng thời, giảm tối đa kinh phí đầu tư của Nhà nước.
Mặc dù, đội ngũ Người có uy tín trong đồng bào DTTS ở khắp các phum, sóc, bản, làng... đã phát huy tốt vai trò của mình trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh trật tự. Tuy nhiên hiện nay, sau khi thực hiện chủ trương sáp nhập các đơn vị hành chính, công việc của Người có uy tín tăng lên gấp đôi, gấp ba lần nhưng chế độ đãi ngộ thì đang ở mức thấp. Bên cạnh đó, một bộ phận Người có uy tín đứng trước nguy cơ bị già hóa mà chưa có người thay thế.
Xác định thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc là nhiệm vụ quan trọng để đạt được mục tiêu phát triển KT-XH, đảm bảo an ninh - quốc phòng, nhiều năm qua, Ban Dân tộc tỉnh Cao Bằng đã tham mưu, cụ thể hóa, vận dụng linh hoạt các chính sách dân tộc vào thực tiễn, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế-xã hội, kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo, xây dựng đời sống văn hóa trong đồng bào các DTTS.
Nước ta hiện có 16 DTTS rất ít người (có số dân dưới 10.000 người). Các dân tộc này hầu hết cư trú tại những địa bàn khó khăn thuộc lõi nghèo của cả nước. Cùng với những chính sách chung, những năm qua Đảng, Nhà nước đã có nhiều chính sách đặc thù, quan trọng để đầu tư, hỗ trợ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - văn hóa – giáo dục… nhằm tạo điều kiện tốt nhất để các DTTS rất ít người có điều kiện vươn lên.
Đào tạo nghề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với lực lượng lao động. Đào tạo nghề sẽ tăng cơ hội việc làm, ổn định sinh kế để xóa đói, giảm nghèo. Trong đó, đào tạo nghề truyền thống đang được xem là bài toán tạo sinh kế bền vững, ổn định. Tuy nhiên, hiện nay, loại hình đào tạo nghề truyền thống, nhất là ở vùng đồng bào DTTS và miền núi chưa thực sự được quan tâm, đầu tư...
Việc hỗ trợ cây trồng vật nuôi từ các dự án hỗ trợ phát triển sản xuất chưa hiệu quả, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác giảm nghèo ở vùng đồng bào DTTS và miền núi. Để chính sách hỗ trợ thực sự phát huy hiệu quả đòi hỏi phải có sự điều chỉnh về phương thức quản lý, điều hành và triển khai thực hiện.
Mục tiêu giảm nghèo bền vững ở Hà Giang trong thời gian tới đang kỳ vọng rất lớn vào quá trình triển khai thực hiện hiệu quả Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, là yếu tố quan trọng để địa phương phát triển bền vững.
Đây là tổng kinh phí được Chủ tịch UBND tỉnh Cà Mau phê duyệt để thực hiện Đề án “Giảm thiểu tình trạng tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn II từ năm 2021-2025”.
Những năm qua, từ các dự án hỗ trợ sản xuất từ các Chương trình 30a, Chương trình Mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới… đồng bào các DTTS đã phát triển sinh kế thông qua việc hỗ trợ các loại cây trồng, vật nuôi và tiếp cận khoa học kỹ thuật,.. Tuy nhiên, một số địa phương do xây dựng kế hoạch, khảo sát thực tế chưa hợp lý; đặc biệt có địa phương cung cấp con giống chưa đảm bảo, không phù hợp với thổ nhưỡng, khí hậu và tập quán sản xuất của bà con, dẫn đến hiệu quả thấp, gây lãng phí nguồn kinh phí hỗ trợ.
Với sự vào cuộc có trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền các cấp, sự nỗ lực vươn lên của người dân, tỉ lệ hộ nghèo trên địa bàn tỉnh Hà Giang đã giảm từ 43,65% (năm 2016) xuống còn trên 22% (năm 2020). Theo đánh giá, tuy tỉ lệ hộ nghèo có giảm nhưng chưa bền vững, nguyên nhân một phần do nguồn lực đầu tư còn nhỏ lẻ, một phần do công tác xóa đói giảm nghèo còn tồn tại một số bất cập, hạn chế.
Sau 5 năm thực hiện Chương trình 135 giai đoạn 2016 - 2020, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ, tạo tiền để cho các xã trên địa bàn Lâm Hà thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống cho người dân, đặc biệt là đối với đồng bào DTTS trên địa bàn. Nhờ đó, 100% xã, thị trấn trên địa huyện hoàn thành tiêu chí nông thôn mới.