Hàng nghìn hộ dân trên địa bàn tỉnh Lào Cai được cấp phát bồn chứa nước từ Chương trình MTQG 1719Theo kế hoạch, giai đoạn đoạn 2021 - 2025, huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai sẽ cấp 1.504 chiếc bồn chứa nước cho các hộ dân từ Chương trình MTQG 1719; tuy nhiên, hết năm 2024 huyện đã cấp được 1.926 chiếc, vượt kế hoạch 422 chiếc. Trong đó, riêng năm 2024 huyện đã triển khai cấp 2 đợt với tổng số 1063 chiếc bồn chưa nước.
Ông Lê Đức Minh,Trưởng phòng Dân tộc và Tôn giáo huyện Bát Xát cho biết: Ngay từ những ngày đầu triển khai, Phòng Dân tộc và Tôn giáo huyện cùng với các xã tập trung rà soát thống kê nhu cầu của người dân; từ đó, xây dựng kế hoạch bảo đảm đúng đối tượng và sát với nhu cầu thực tế.
“Đến nay, chúng tôi đã hoàn thành vượt kế hoạch được giao. Để có được kết quả này, bên cạnh nguồn lực cấp theo kế hoạch đã xây dựng thì chúng tôi cũng mạnh dạn đề xuất với huyện chuyển nguồn đối với với những nội dung khó hoặc không thể thực hiện được như nguồn hỗ trợ đất ở, đất sản xuất trong Dự án 1- Chương trình MTQG 1719… Cùng với đó, trong quá trình đấu thầu mua bồn chứa nước chúng tôi cũng tiết kiệm được một khoản kinh phí do giá bỏ thầu thấp hơn so với giá mời thầu; từ nguồn tiết kiệm này chúng tôi tiếp tục mua bổ sung bồn chứa cấp cho bà con”, ông Minh phân tích.
Bát Xát là địa phương chịu thiệt hại lớn về cơ sở hạ tầng do trận mưa lũ tháng 9/2024; trong đó, có các công trình nước sạch sinh hoạt phục vụ nhu cầu của bà con Nhân dân. Qua rà soát, hiện nay hàng nghìn hộ dân có nhu cầu về bồn chứa nước. Phòng Dân tộc huyện đang tiếp tục cùng với cấp ủy, chính quyền các xã rà soát, thống kê cụ thể những đối tượng đủ điều kiện, tiêu chí để xây dựng kế hoạch mua sắm, cấp bổ sung.
“Đối với những hộ nằm trong tiêu chí cấp theo quy định từ Chương trình MTQG 1719, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, rà soát các tiểu dự án thuộc Dự án 1 mà khó triển khai sẽ đề xuất với huyện chuyển nguồn để mua bổ sung cấp cho bà con theo đúng quy định. Còn đối với những hộ không thuộc diện dự án thì sẽ phối hợp với các phòng ban chuyên môn nghiên cứu, lồng ghép các nguồn vốn để bố trí cấp bồn nước cho bà con”, ông Minh nhấn mạnh.
Bồn chứa nước cấp phát cho các hộ dân bảo đảm chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuậtThực hiện Dự án 1 (Chương trình MTQG 1719) về giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; năm 2024, tỉnh Lào Cai đã triển khai đầu tư công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, thực hiện các thủ tục nghiệm thu công trình hoàn thành và thanh quyết toán các công trình đã giải ngân được 11.066 triệu đồng. Lũy kế từ năm 2021 đến đầu năm 2025 đã đầu tư xây dựng 27/30 công trình nước sinh hoạt tập trung. Đối với hỗ trợ nước sinh hoạt phân tán, toàn tỉnh đã giải ngân 7.353 triệu đồng cho 2.451 hộ mua téc, lu đựng nước.
Theo báo cáo của Sở dân tộc và Tôn giáo Lào Cai - cơ quan Thường trực Chương trình MTQG 1719, mặc dù triển khai Chương trình giai đoạn 2021- 2025 có gặp những khó khăn, vướng mắc; song dự kiến phần lớn số lượng chỉ tiêu Chương trình đều đạt được mục tiêu đề ra. Trong đó, kết quả giảm tỷ lệ hộ nghèo, hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu vùng đồng bào DTTS, nhất là ở vùng ĐBKK được từng bước đầu tư nâng cấp, mở rộng mang đến diện mạo mới trong vùng; ở đây nổi bật là hệ thống đường giao thông nông thôn; trường lớp học; nhà ở dân cư, tỷ lệ hộ dân được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
“Riêng đối với việc đầu tư nguồn lực Chương trình MTQG 1719 về hỗ trợ nước sạch sinh hoạt đã góp phần đưa tỷ lệ số hộ dân nông thôn toàn tỉnh Lào Cai được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 95,3%; tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn kỹ thuật đạt 47% (trong đó, có 16,1% từ công trình cấp nước tập trung và 30,9% từ công trình cấp nước hộ gia đình). Đối với nhóm hộ nghèo, tỷ lệ sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 94,8%”, ông Nguyễn Xuân Nhẫn, Giám đốc Sở dân tộc và Tôn giáo tỉnh Lào Cai thông tin.
Các hộ dân được hỗ trợ bồn chứa nước bảo đảm đúng đối tượngCó thể nói, việc triển khai thực hiện Chương trình MTQG 1719 đã tác động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Lào Cai; đặc biệt là các xã, thôn ĐBKK trên địa bàn tỉnh. Sự đầu tư của Chương trình đã làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào DTTS thông qua các kết cấu hạ tầng xã hội, hạ tầng kinh tế - kỹ thuật; đời sống, điều kiện tiếp cận các dịch vụ cơ bản xã hội, thu nhập của người dân ngày càng được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua các năm; qua đó mang lại tính bền vững của Chương trình.