Tranh thờ của người Dao được vẽ theo kiểu tranh dân gian với nét vẽ tả thực, các vị thần có vẻ mặt khác nhau nhưng đều mang nét oai nghiêm. Màu chủ đạo trong tranh là xanh, đỏ, tím, vàng, trắng, được cụ thể hóa trong từng chi tiết. Mỗi bộ tranh thờ gồm 12 tranh, nội dung và cách thể hiện từng tranh khác nhau.
Tranh thể hiện quan niệm của con người thuở sơ khai về vũ trụ, lịch sử cội nguồn, cũng như các mối quan hệ giữa con người với vũ trụ, thần linh và những ước vọng trong cuộc sống. Theo quan niệm của người Dao, 3 vị thần linh có quyền năng vô song, bảo trợ cuộc sống cho con người là Ngọc Thanh (thần cai quản trên trời), Thượng Thanh (thần cai quản trần gian), Thái Thanh (thần cai quản âm phủ).
Người Dao không treo tranh hàng ngày trong nhà, chỉ khi tiến hành nghi lễ, họ mới treo tranh thờ lên, thực hiện lễ xong lại cuộn tranh cất đi. Bộ tranh này dòng họ người Dao nào cũng phải có để tiến hành các nghi lễ cúng tổ tiên. Trong lễ cấp sắc, người ta treo rất nhiều bộ tranh thờ do các thầy cúng mang tới. Những bộ tranh này có tuổi đời hàng chục năm, thậm chí cả trăm năm và được truyền từ đời này qua đời khác.
Một bộ tranh thờ gồm nhiều bức tranh khác nhau và được vẽ rất kỳ công, từ khâu làm giấy vẽ, lựa chọn mực vẽ. Nghệ nhân Hoàng Văn Tài, người Dao Thanh Phán ở xã Đông Hải (huyện Tiên Yên), cho biết: Bộ tranh nào nhiều thì 12 tranh, ít cũng 3 tranh và khi sắm về phải làm lễ cúng rất phức tạp nên đều được các gia đình, dòng họ coi như bảo vật gia đình.
Ngoài chức năng phục vụ hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng và trang trí, tranh thờ còn mang tính giáo dục, mang nội dung tri thức dân gian rất lớn. Đặc biệt, theo quan niệm của người Dao ở Quảng Ninh (gồm Dao Thanh Y và Thanh Phán) tranh thờ thể hiện sự linh thiêng, liên quan đến sự an nguy của gia đình, dòng tộc. Bởi thế, họ làm lễ cúng tế và cất giữ bộ tranh rất cẩn thận, các ngày lễ tết, giỗ chạp, cấp sắc lớn mới được mang ra dùng.
Trong một diện tích hẹp, nghệ nhân dân gian phải bố cục dày đặc các nhân vật thần chủ. Đó là Ngọc hoàng, Thái Thượng lão quân, Ngọc Thanh, Thượng Thanh, Thánh chủ, Khai Thiên, Khai Địa, Thiên Lôi, La Sát cùng với trần gian, thần linh, đức Phật, quỷ thần và địa ngục... Bức tranh nhiều nhất có tới 120 nhân vật thần chủ. Tranh có bố cục lạ, hẹp, dài, với dày đặc các nhân vật thần linh. Các nhân vật này lại tuân theo một quy tắc xã hội, nhân vật nào có quyền năng lớn được vẽ to, chiếm vị trí trung tâm, còn các thần ít quyền năng hơn thì được vẽ đơn giản, kích thước nhỏ.
Ngoài ra còn có voi, ngựa, cờ lọng, tuỳ tùng hầu hạ. Một điều đáng chú ý là phong cách nghệ thuật trong tranh thờ được sử dụng triệt để, tạo nên hiệu quả rất cao. Nghĩa là trong cùng một khuôn tranh, người ta bắt gặp đủ các lớp không gian, thời gian, thực và ảo khác nhau, các thần chính, thần phụ, ma quỷ và con người trên cùng một mặt tranh. Lại có những bức tranh thờ vẽ đủ các cảnh, từ mặt đất lên bầu trời, từ núi sông tới biển cả, từ địa ngục tới tiên cảnh, tùy theo trí tưởng tượng của người vẽ.
Xưa kia, người Dao tự làm giấy dó có tính xốp nhẹ, bền dai, không nhòe khi viết vẽ, ít bị mối mọt, ẩm mốc để làm giấy vẽ tranh. Hiện nay, trên thị trường sẵn có nên họ không tự làm, mà ra chợ mua về dùng. Sau khi mang giấy về, gia chủ sẽ chế biến một loại keo đặc biệt, có độ bền dính cao được làm từ gạo nếp, bì trâu băm nhỏ và vài lát cây rừng... Tất cả các nguyên liệu trên được cho vào nồi đun sôi nhỏ lửa khoảng 2 ngày, 2 đêm để tạo ra chất hồ kết dính dùng bồi giấy.
Khi đã tạo ra chất hồ kết dính, họ trải giấy dó ra rồi phết hồ lên từng tấm. Cứ như vậy, khoảng 10 đến 15 tấm giấy dó được bồi vào nhau tạo nên một tấm giấy dày khoảng 0,3mm (độ rộng, dài của giấy theo một khuôn mẫu nhất định). Khi đã hoàn thiện, tấm giấy được treo ở chỗ thoáng gió, để lớp keo kết dính khô từ từ, tránh ẩm mốc, hư hỏng.
Kỹ thuật vẽ tranh thờ của người Dao là nghệ thuật đặc sắc và không phải ai cũng vẽ được. Người vẽ tranh cũng phải tuân thủ những nguyên tắc, luật lệ nhất định, nên việc hoàn thành một bộ tranh thường mất khoảng vài tháng đến 1 năm. Vì thế, giá của mỗi bộ tranh thờ lên tới hàng chục triệu đồng. Tranh thờ giá khá cao nên không phải gia đình nào cũng có điều kiện có được một bộ theo đúng cách vẽ truyền thống. Đây cũng là một trong những lý do số lượng tranh thờ không còn nhiều.
Số lượng nghệ nhân vẽ được tranh còn lại chỉ tính trên đầu ngón tay. Đáng lo ngại nhất là từ chỗ dòng tranh thờ dân gian đã dần mai một, nhiều gia đình đã mất hẳn tục thờ tranh, mất dần bản sắc văn hoá độc đáo. Vì vậy, thiết nghĩ việc sưu tầm, bảo tồn tranh thờ ở Quảng Ninh rất cần được ngành văn hóa quan tâm hơn nữa.