Xin ông cho biết, việc dạy và học ở vùng đồng bào DTTS và MN trên địa bàn tỉnh Quảng Nam hiện nay có những thuận lợi và khó khăn như thế nào?
Ông Nguyễn Công Thành: Trong những năm qua, tỉnh Quảng Nam luôn chú trọng thực hiện chính sách dân tộc, đặc biệt là công tác phát triển giáo dục miền núi được quan tâm đúng mức. Các chế độ, chính sách đối với cán bộ, giáo viên, học sinh được thực hiện nghiêm túc, kịp thời, đúng qui định. Hầu hết đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý tâm huyết, yêu nghề, có tinh thần vượt khó, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nhờ sự quan tâm đầu tư và các chính sách hỗ trợ đặc thù mà giáo dục vùng đồng bào DTTS và miền núi đã có những khởi sắc, mang lại một diện mạo mới. Đến nay, mạng lưới, quy mô trường lớp từ mầm non đến trung học phổ thông ở vùng đồng bào DTTS và miền núi được củng cố và phát triển, từng bước đáp ứng nhu cầu học tập cho con em đồng bào các dân tộc trong độ tuổi đến trường.
Hệ thống trường, lớp học được quan tâm đầu tư xây dựng ngày càng khang trang, đảm bảo điều kiện tối thiểu để từng bước nâng cao chất lượng dạy và học. Nhiều thôn, bản vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới đã có lớp mầm non; hầu hết các xã có trường tiểu học ở khu vực trung tâm và trường trung học cơ sở; các huyện đều có trường trung học phổ thông.
Hiện nay, vùng đồng bào DTTS và miền núi của tỉnh có 199 trường. Trong đó, có 63 trường mầm non-mẫu giáo, 52 trường tiểu học (23 trường bán trú), 41 trường THCS, kể cả 4 trường PTDTNT cấp THCS (21 trường bán trú), 25 trường TH &THCS (10 trường bán trú), 14 trường THPT, 4 trường PTDTNT có 2 cấp THCS &THPT.
Đặc biệt, mô hình trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú đã đóng góp lớn trong tạo nguồn đào tạo cán bộ, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cho vùng đồng bào DTTS và miền núi, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ học sinh đến trường tăng cao, tỷ lệ học sinh bỏ học ngày càng giảm…
Tuy nhiên, việc dạy và học ở các huyện miền núi Quảng Nam vẫn còn những khó khăn, đó là: Tình trạng học sinh bỏ học, thiếu chuyên cần vẫn còn xảy ra. Sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình và địa phương chưa đồng bộ, thiếu sâu sát. Tình trạng sai hộ tịch, hộ khẩu ở một số nơi vẫn chưa được khắc phục triệt để, gây khó khăn trong công tác quản lí của nhà trường. Phòng học bộ môn, trang thiết bị ở một số trường chưa đảm bảo theo yêu cầu của Chương trình giáo dục phổ thông 2018, có nơi còn thiếu khá nhiều. Bên cạnh đó, tình trạng thiếu giáo viên vẫn đang là bài toán nan giải đối với giáo dục miền núi.
Ngoài ra, điều kiện đời sống, sinh hoạt của một số giáo viên còn nhiều khó khăn; chế độ, chính sách đã được quan tâm, nhưng chưa thu hút giáo viên ở lại công tác lâu dài tại các huyện miền núi. Việc dừng phát triển mô hình các trường phổ thông dân tộc bán trú ở một số xã đã tác động đến tâm lí, gây khó khăn cho phụ huynh, học sinh. Đơn cử như, học sinh ở địa bàn ra khỏi khu vực III không được hưởng bán trú theo Nghị định 116/2016/NĐ-CP, trong khi nhà cách trường khá xa, học sinh đi lại khó khăn, dẫn đến nguy cơ bỏ học giữa chừng.
Ngành Giáo dục Quảng Nam đã có những giải pháp nào để khắc phục những khó khăn nói trên?
Ông Nguyễn Công Thành: Hằng năm, Sở GD&ĐT tỉnh duy trì tốt việc tổ chức Hội nghị giao ban chuyên đề về công tác giáo dục dân tộc, thành phần tham dự gồm: đại diện Ban Dân tộc HĐND tỉnh, Ban Dân tộc tỉnh, lãnh đạo UBND, Phòng GDĐT và các cơ sở giáo dục miền núi để đánh giá và đưa ra các giải pháp khắc phục. Qua đó, tăng cường công tác xã hội hóa giáo dục.
Ngành GD&ĐT tỉnh Quảng Nam xem đây là nhiệm vụ thường xuyên. Cán bộ, giáo viên các cơ sở giáo dục đã tích cực đến từng gia đình có học sinh đi học thiếu chuyên cần hoặc bỏ học để vận động học sinh ra lớp. Chính vì vậy, việc duy trì sĩ số học sinh/lớp ở miền núi của tỉnh Quảng Nam được ổn định, đặc biệt là ở cấp tiểu học và THCS đã giảm đáng kể về số học sinh bỏ học so với những năm trước đây.
Nhằm thu hút giáo viên công tác ở vùng đồng bào DTTS và miền núi của tỉnh, Sở tham mưu, đề xuất UBND tỉnh kiến nghị Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Nam tiếp tục chỉ đạo các đơn vị, địa phương thực hiện việc tuyển dụng giáo viên và viên chức giáo dục. Sở Nội vụ đang phối hợp với Sở GD&ĐT tỉnh và các địa phương miền núi xây dựng các chế độ, chính sách thu hút giáo viên đến công tác lâu dài tại các huyện miền núi để trình các cấp có thẩm quyền quyết định.
Bên cạnh đó, các cấp cũng tham mưu UBND tỉnh có chính sách lâu dài trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên tại chỗ; quan tâm đến công tác phát triển giáo dục miền núi, đặc biệt là việc đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học, cải thiện điều kiện làm việc của giáo viên. Đồng thời, đề xuất, kiến nghị với Trung ương quan tâm tới chính sách tiền lương và các chế độ ưu đãi khác của viên chức ngành GD&ĐT để đáp ứng nhu cầu cuộc sống.
Việc triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi (Chương trình MTQG 1719) có ý nghĩa như thế nào đối với sự phát triển giáo dục ở vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn tỉnh, thưa ông?
Ông Nguyễn Công Thành: Có thể khẳng định rằng, Chương trình MTQG 1719 sẽ góp phần quan trọng vào phát triển giáo dục đối với vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn cả nước nói chung, tỉnh Quảng Nam nói riêng. Theo nguồn vốn trung hạn giai đoạn 2021-2025, Sở GD&ĐT được phân bổ nguồn vốn hơn 12 tỷ đồng để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho 4 trường PTDTNT trực thuộc.
Đến nay, đã xây mới khối nhà đa năng, sửa chữa khối nhà ở công vụ giáo viên và khối nhà ở nội trú học sinh của Trường THCS&THPT Nam Trà My; đang hoàn thiện san nền, gia cố mái taluy, hệ thống thoát nước, xây mới khu TDTT ở Trường THCS&THPT Nước Oa, Bắc Trà My. Đầu tư cơ sở vật chất chuyển đổi số phục vụ việc giảng day và học tập trực tuyến cho học sinh dân tộc thiểu số tại 3 trường PTDTNT trực thuộc.
Cùng với đó, thực hiện Tiểu dự án 2-Dự án 5, Sở GD&ĐT đã tổ chức 5 lớp Bồi dưỡng kiến thức dân tộc dành cho cán bộ quản lý trường phổ thông (TH,THCS,THPT), với 234 học viên.
Việc triển khai hiệu quả các tiểu dự Dự án nêu trên, góp phần tiếp tục củng cố và phát triển hợp lý hệ thống các trường PTDTNT, PTDTBT, trường phổ thông có học sinh ở bán trú; đầu tư bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất cho các trường chưa đạt chuẩn quốc gia để đảm bảo tốt việc tổ chức dạy - học (bao gồm cả các hoạt động dạy và học trực tuyến), nuôi dưỡng và chăm sóc học sinh bán trú, nội trú.
Bên cạnh đó, việc thực hiện hiệu quả Chương trình MTQG 1719, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên các trường PTDTNT, trường PTDTBT, trường phổ thông có học sinh ở bán trú. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm về công tác xoá mù chữ, tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả công tác xoá mù chữ. Nguồn lực để đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các trường PTDTNT, PTDTBT, trường có học sinh bán trú… Các nhiệm vụ trên đã và đang góp phần quan trọng vào phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS và miền núi ở Quảng Nam.
Xin cảm ơn ông!