Các chức sắc đang phân loại xương đựng trong hộp Klong trong lễ nhập KutĐền thờ Po Ina Nagar - một tín ngưỡng thờ mẫu
Tín ngưỡng thờ Po Ina Nagar là một loại hình tín ngưỡng thờ mẫu của người Chăm. Nữ thần đã truyền dạy cho người Chăm nghề trồng lúa nước, nghề dệt vải, làm gốm, đi biển và trao đổi, buôn bán. Trước đây, người Chăm thờ nữ thần Po Ina Nagar ở tháp Bà thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Do những biến cố lịch sử người Chăm đã thỉnh bà về thờ phụng tại đồng bằng Hamu Ram thôn Mông Nhuận, xã Phước Hữu. Đến năm 1954, người Chăm tiếp tục di dời ngôi đền về tại cánh đồng Hamu Tanran, thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận cho đến ngày nay.
Kiến trúc ngôi đền Po Ina Nagar giống với kiến trúc của ngôi đình ở các làng người Việt. Trên đỉnh mái có trang trí lưỡng long tranh châu, xung quanh ngôi đền được xây dựng vòng thành bảo vệ, cổng chính mở ở hướng Đông. Về tổng thể, ngôi đền Po Ina Nagar gồm có 3 không gian thờ chính: Gian ở phía Đông có đặt pho tượng Po Bia Apakal, gian chính giữa dùng làm nơi chuẩn bị lễ vật và nghỉ ngơi của các chức sắc, gian ở phía Tây có đặt 2 pho tượng Po Bia Dara và Po Bia Tâh.
Các nữ thần được thờ phụng tại ngôi đền Po Ina NagarNgoài ra, còn có một căn nhỏ ở phía Nam dùng để tế thần lửa vào dịp tổ chức Lễ hội Yuer Yang. Có thể nói rằng, kiến trúc xây dựng đền thờ Po Ina Nagar ảnh hưởng tư duy kiến trúc xây dựng đình của người Việt, thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa hai cộng đồng nhưng vẫn bảo tồn được các kỹ thuật xây dựng truyền thống của người Chăm về cách bố trí các điểm thờ và hệ thống kết cấu vi kèo.
Tuy chỉ là một ngôi đền nhỏ do cộng đồng làng quản lý, hằng năm tại đền thờ Po Ina Nagar, đồng bào Chăm đều tổ chức các lễ hội Yuer Yang, Katê, Cambur và mở cửa tháp như các đền tháp khác ở Ninh Thuận. Đặc biệt, tại thờ Po Ina Nagar có nghi lễ tế rùa biển (con vích) do các dòng tộc tổ chức theo định kỳ. Thực hành cúng lễ tại đền thờ Po Ina Nagar là các chức sắc Po Adhia, bà Pajau, ông Kadhar và ông Camanei thực hiện các nghi lễ mở cửa đền, tắm tượng, mặc y trang, dâng lễ vật và hát thánh ca.
Di tích vòng thành đá Po Klong HalauVào dịp Lễ hội Katê, cộng đồng người Raglay từ miền núi làng Njak (Giá), xã Phước Hà, huyện Thuận Nam gùi y trang nữ thần Po Ina Nagar bàn giao cho người Chăm hành lễ. Cộng đồng người Raglay tham gia hành lễ đánh mã la, thổi kèn bầu, mang đến một không gian trình diễn âm nhạc đặc sắc. Người Chăm có câu thành ngữ “Chăm sa-ai Raglai adei”, nghĩa là người Chăm là chị cả, còn người Raglay em gái út theo chế độ mẫu hệ nên được quyền kế thừa di sản, bảo quản y trang của nữ thần Po Ina Nagar. Lễ hội Katê là dịp thắt chặt thêm tình cảm giữa hai cộng đồng Chăm và Raglay gắn bó thân thiết.
Di tích vòng thành đá Po Klong Halau
Po Klong Halau (1579-1603) lên ngôi năm con Thỏ, thoái vị năm con Thỏ, trị vì 24 năm, đóng đô ở Bal Pangdurang gần làng Chung Mỹ, Phan Rang. Ðầu thế kỷ thứ XVIII, Bal Pangdurang dời về Phan Rí ở Bal Canar, thôn Tịnh Mỹ, xã Phan Thanh, huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận. Di tích Po Klong Halau được xây dựng bằng hệ thống vòng thành bằng đá bao quanh. Hệ thống vòng thành gồm có 3 lớp tính từ cửa ra vào, lớp thứ nhất rộng lớn nhất, lớp thứ hai nhỏ hơn đến lớp thứ ba có đặt đá Kut làm nơi thờ phụng.
Dâng lễ vật tại đền thờ nữ thần Po Ina nagarTại di tích Po Klong Halau có 3 tảng đá Kut có điêu khắc hoa văn hình bông hoa 4 cánh, hoa văn cách điệu hình vương miện và 3 hòn đá hình trụ tròn không có chạm khắc, điêu khắc. Quá trình trùng tu các đá Kut được quy hoạch lại xếp thành một dãy hàng ngang chung với nhau. Hiện nay, không có dòng tộc nào đang sinh sống ở làng Hữu Đức nhận là hậu duệ dòng tộc Po Klong Halau. Nhưng, hàng năm vào dịp Lễ hội Katê khi dâng lễ trên đền tháp xong, cộng đồng Chăm đến dâng lễ tại đền thờ Po Klong Halau.
Khác với các Kut của dòng tộc, do dòng tộc trực tiếp quản lý và thực hành tín ngưỡng. Khu vực di tích Kut Po Klong Halau thuộc về cộng đồng làng Hữu Đức quản lý, do đó khi có nhu cầu thực hành tín ngưỡng các gia đình, dòng tộc đều được phép đến khấn cầu sự phù hộ độ trì. Trong dân gian tuyên truyền, Kut rất linh thiêng, những người đến viếng Kut phải giữ lời ăn tiếng nói, không tùy tiện xả rác hay lấy những hòn đá xây vòng thành về nhà sử dụng làm ông táo.
Hàng đá Kut tại di tích Po Klong HalauTừ hoa văn điêu khắc và kích thước của tảng đá Kut, có thể nhận định Po Klong Halau thuộc dòng tộc cao quý, có địa vị lớn trong xã hội. Người dân địa phương chưa xác định được Kut được xây dựng, tạo lập từ bao giờ, những hậu duệ của dòng Po Klong Halau đã di cư đi đâu? Một thời gian dài, Kut Po Klong Halau bị hoang hóa, bụi cây xương rồng và cây hoang dại phủ kín bao quanh rậm rạp, không ai dám tự ý đi vào khu di tích. Qua nhiều lần tu bổ, xây dựng vòng tường thành bảo vệ, đổ mặt nền bêtông và dựng mái vòng che chắn nắng mưa tại vị trí đặt đá Kut, làm cho khu di tích được sạch sẽ như một công viên có cây xanh và đèn chiếu sáng.
Di tích đền thờ đá Kut Po Klong Halau là trung tâm sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng Chăm, mở cửa thường xuyên cho người dân có nhu cầu thực hành cúng kính, hướng dẫn người dân thực hành các nghi lễ là chức sắc ông Kadhar. Các lễ vật dâng cúng có trái cây, bánh ngọt, trầu cau, rượu trứng, một cặp gà hay một con dê tùy theo gia đình. Có thể nói rằng, Po Klong Halau như vị thần hoàng của làng. Nơi người dân tìm đến để thỏa mãn nhu cầu thực hành văn hóa tâm linh.
Những hộp Klong được phân loại chuẩn bị nhập KutTập tục thờ đá Kut của người Chăm
Người Chăm theo chế độ mẫu hệ, người con gái có quyền cưới chồng về nhà. Sau khi làm lễ hỏa táng xong, người Chăm giữ lại 9 miếng xương vùng trán như hình đồng xu đựng trong hộp kim loại, tiếng Chăm gọi Klong. Đến ngày nhập Kut, gia đình nhà vợ có nghĩa vụ mang hộp Klong về trao trả cho gia đình nhà chồng để tiến hành nhập Kut theo dòng tộc mẫu hệ. Người Chăm có câu thành ngữ “Daok hadiep ngap mbeng ka urang tel matai ba talang ka amaik”. (Nghĩa là: Còn sống thì tạo dựng của cải cho người dưng, đến khi chết đi mang xương về trả cho mẹ). Câu thành ngữ trên phản ánh đúng bản chất của chế độ mẫu hệ của người Chăm, con cái thuộc về dòng mẹ. Lúc sinh thời được tự do sinh sống ở bất kỳ nơi đâu nhưng khi chết đi phải trở về nghĩa trang của dòng tộc mẹ.
Trên đường đến Kut nghĩa trang dòng tộcĐặc điểm chung các Kut của người Chăm đều xây dựng về phía đông của làng, gần nguồn nước. Tên gọi của Kut thường lấy địa danh, tên một loại cây, tên của người phụ nữ lớn tuổi nhất của dòng tộc hoặc tên của người có công đứng ra tổ chức lập Kut. Ví dụ: Kut gep Hamu Makia (Dòng tộc Cây Thị), Kut Amil Apuei (Cây me lửa)... Những dòng tộc nào thuộc dòng dõi chiến binh, quý tộc, quan lại thì đá Kut có điêu khắc hoa văn 4 cánh hoa, nét chạm trổ hình vương miện. Còn dòng tộc bình dân thì chỉ có phiến đá trơn không có chạm khắc hoa văn trang trí.
Các tảng đá Kut của người Chăm thường có con số lẻ 3-5-7-9-11 cái. Số lượng đá Kut nhiều hay ít tùy theo dòng tộc tạo lập. Nhưng các phiến đá được sắp đặt theo một trật tự nhất định. Dãy đá ở phía đông dành nam giới, dãy đá ở phía tây dành cho nữ giới. Riêng phiến đá ở chính giữa làm trung tâm thì không có chôn cốt. Tùy theo tình trạng chết xấu, chết tốt, người có địa vị xã hội, chức sắc, quan lại, bình dân hay người bị dị tật sẽ được quy hoạch, chọn lựa chôn chung đá Kut. Người Chăm rất thận trọng trong việc nhập Kut, nếu không tuân thủ theo quy ước trên tổ tiên sẽ trừng phạt con cháu. Các chức sắc tiến hành nhập Kut cũng rất kỹ lượng phân loại và nhóm các hộp Klong tiêu chuẩn theo quy định.
Trải nghiệm du lịch cộng đồng tại làng Chăm Hữu Đức du khách được tự do đi bộ trên cánh đồng, ngắm nhìn dòng sông quê. Tự mình khám phá những điều thú vị về ẩm thực, âm nhạc, tập tục và tìm hiểu các di sản văn hóa lịch sử ở làng Chăm.
Đá Kut có điêu khắc hoa văn của tộc họ Hamu Makia
Đọc kinh tại lễ nhập Kut