Với các dân tộc vùng Tây Nguyên, bếp lửa trong mỗi mái nhà sàn hay dưới bóng cây nêu giữa sân buôn làng đã trở thành một biểu tượng của sự sống, lay thức mỗi trái tim về nguồn cội và tình cảm cố kết cộng đồng. “Giữ ấm bếp hồng” chính là giữ mối dây kết nối thế hệ, là tâm huyết trao truyền những giá trị văn hóa của tổ tiên đến với con cháu mai sau.
Nhạc sĩ Krajan Plin là một trong những người như vậy. Quen biết anh gần 30 năm, chưa bao giờ tôi thấy người đàn ông Cơ Ho tràn đầy năng lượng này nguôi niềm khắc khoải với văn hóa dân tộc. Anh lo lắng, bất an với những giá trị truyền thống đang có nguy cơ nhạt phai. Anh cũng là người cố gắng từng chút một góp sức cùng mọi người níu giữ những gì còn có thể cứu vãn. Âm nhạc của Plin là thứ giai điệu chắt lọc từ thanh âm hồn cốt của núi rừng, là tiếng gọi tha thiết đồng bào trở về với cội nguồn văn hóa dân tộc…
Hơn 20 năm trước, nhạc sĩ Krajan Plin cùng những người đồng tộc tâm huyết thành lập ban nhạc “Những người bạn Lang Bian”, với khao khát được làm cái “bếp lửa” sưởi ấm những buôn làng dưới chân núi Mẹ bằng những giai điệu cất lên từ thanh âm của núi rừng sâu thẳm. Đó cũng chính là cái “tổ” ban đầu dưỡng nuôi trưởng thành những giọng hát như Liêng Hót Uyên Ly, Cil Glè, Panting Sally; rồi hai dì cháu cùng là ca sĩ Krajan Út, Cil Pơi từng lọt vào vòng chung kết giải Sao Mai 2003. Đặc biệt, Krajan Plin cũng là người thầy dạy dỗ và viết ca khúc “Lang Bian S’ning” (Nghĩ về Lang Bian) cho cô học trò Bonuer Trinh hát, giúp nữ ca sĩ này đạt giải Nhất Tiếng hát Truyền hình TP. Hồ Chí Minh. Không chỉ vậy, đến bây giờ, Plin vẫn từng ngày cặm cụi sưu tầm, ghi chép những câu luật tục, những lời hát dân ca mà tổ tiên truyền lại.
Người cháu của Plin, nhạc sĩ Krajan Dick cũng chung niềm đồng cảm với cậu của mình trong công việc “giữ lửa”. Dick chia sẻ cùng tôi: “Mỗi dân tộc ở Tây Nguyên đều có bản sắc văn hóa riêng và luôn tự hào về điều đó. Công việc của chúng tôi là làm gì đó để giữ lại, trao truyền cho thế hệ mai sau những di sản văn hóa quý giá mà tổ tiên nhiều đời hình thành, sáng tạo”.
Nói là làm, vừa rời nhiệm vụ Phó Trưởng Đoàn Nghệ thuật Lâm Đồng, Dick trở về với buôn làng nơi chân núi, cùng Plin và những người đồng tộc sưu tầm, ký âm, ký tự nhằm bảo tồn những bài chiêng, những điệu ca cổ. Anh cũng mang những giá trị đó đến với lớp trẻ cộng đồng, bằng những buổi biểu diễn, những cuộc giao lưu, trao đổi và cả lan tỏa qua mạng xã hội. Tôi đã cảm nhận rõ nét điều đó khi đến nhà nữ Nghệ nhân cồng chiêng Cil Ka, một người cùng huyết thống với Plin và Dick; được chứng kiến bà dạy các cô gái trẻ như Cil Gluyến, Panting Benziên những điệu chiêng cổ và bài hát dân ca…
* * *
Bây giờ thì ông K’Điệp được bầu là Người có uy tín ở xã Tam Bố, huyện Di Linh (Lâm Đồng), nhưng mười mấy năm trước ông là đồng nghiệp của chúng tôi ở Đài Phát thanh và Truyền hình Lâm Đồng. Nghỉ hưu, trở về sống với buôn làng đồng bào Cơ Ho của mình, nhưng K’Điệp chưa một ngày nghỉ ngơi việc làm người giữ và truyền “lửa”. Từng đi nhiều, tiếp xúc nhiều, ông càng hiểu hơn những vốn quý văn hóa dân tộc, đặc biệt là tiếng nói, trang phục, các nghi lễ, lễ hội, dân ca, dân nhạc, dân vũ…
Từ năm 2010, được mời tham gia biên soạn cuốn tài liệu “Dạy và học tiếng Cơ Ho”, ông K’Điệp đã dốc hết vốn liếng ngôn ngữ mà ông bà cho, những tinh túy mà ông có được trong những năm tháng trải nghiệm sống và làm việc, với mong muốn gìn giữ và phát triển ngôn ngữ của dân tộc mình. Với sự chung tay của ông và những người tâm huyết, trách nhiệm với công tác dân tộc, cuốn tài liệu đã được đưa vào giảng dạy; giúp cho nhiều cán bộ, công chức và nhiều người trẻ tiếp cận với ngôn ngữ của một dân tộc có tỷ lệ dân số đông ở tỉnh Lâm Đồng.
Ông K’Điệp thường được mời nói chuyện về văn hóa truyền thống ở các trường học trong và ngoài xã. Ông coi việc được truyền ngọn “lửa” tình yêu và sự lan tỏa văn hóa truyền thống của dân tộc mình đến với mọi người, nhất là lớp trẻ, được họ lắng nghe, chia sẻ và trân trọng là điều hạnh phúc… Công việc của ông K’Điệp và những người tâm huyết đã mang lại rất nhiều ý nghĩa, mà điều quan trọng nhất là không để đứt gãy dòng chảy văn hóa. Nhiều người trẻ đã ý thức về việc tiếp nối, về trách nhiệm với giá trị truyền thống.
Cũng ở Di Linh, 10 năm nay, được sự hỗ trợ của chính quyền và ngành Văn hóa, các già làng và nghệ nhân đã mở 9 lớp truyền dạy cồng chiêng với 216 học viên là người trẻ trong buôn làng tham gia, trong đó có rất nhiều bạn nữ. Còn tại các huyện Cát Tiên, Đạ Huoai, Bảo Lâm, Đơn Dương và Đam Rông cũng đang tổ chức các lớp truyền dạy cồng chiêng. Đó là tín hiệu tốt, nói lên ý thức sâu rộng về sự trao truyền, tiếp nối.
* * *
Dòng chảy thời gian tiếp nối, những tác động của đời sống hiện đã có lúc làm mờ phai những giá trị văn hóa cổ truyền. Bởi vậy, mỗi ý nghĩ, lời nói, việc làm góp phần níu giữ vốn quý tộc người đều đáng ghi nhận. Những già làng, trí thức, nghệ nhân luôn nhận trách nhiệm cao nhất, họ ngày đêm đau đáu với việc giữ gìn truyền thống. Tôi đã thấy ông Ya Loan dắt tay từng cháu nhỏ vô lớp dạy tiếng nói của dân tộc Chu Ru. Tôi đã thấy bà Ma Bio, bà Ma Tham hồi sinh những vũ điệu Tamya Ariya, T’rumpô, trống Pă ginăng hay kèn Lơkér bằng cách dạy cho con cháu của mình.
Đi qua các buôn làng, tâm trạng vui khi được chứng kiến những hình ảnh đời thường giản dị mà ý nghĩa. Đó có thể là người mẹ dân tộc Cơ Ho tên là Ha Boong ở buôn Bneur C (Lạc Dương) dạy những đứa con gái pha sợi dệt thổ cẩm. Đó có thể là người cha Chu Ru tên Tou Prông Dương ở Pró (Đơn Dương) dạy mấy đứa con trai thổi lửa nung gốm. Đó có thể là người chị Ka Uyên ở thị trấn Đinh Văn (Lâm Hà) đang truyền bí quyết ủ rượu cần cho mấy đứa em…
Như giai điệu của bài hát “Giữ ấm bếp hồng” của nhạc sĩ Krajan Plin, tôi luôn coi họ chỉ là những người bình thường sống giữa miền rừng núi, cần mẫn mỗi tháng ngày thổi những ngọn “lửa” nhỏ của tình yêu di sản tổ tiên làm ấm áp thêm cho cộng đồng thân thiết của mình và trao truyền tình yêu ấy cho thế hệ cháu con.