Trung tâm Kiểm soát bệnh tật tỉnh tổ chức điều tra đánh giá tình trạng dinh dưỡng bà mẹ và trẻ emĐồng bộ nhiều nội dung
Thực hiện Dự án 7, ngành Y tế Nghệ An được giao chủ trì làm đầu mối triển khai. Bám sát kế hoạch, hướng dẫn của cấp trên, ngành Y tế đã thực hiện 3 nội dung cụ thể.
Đối với nội dung 1 về xây dựng và phát triển y tế cơ sở vùng đồng bào DTTS và miền núi, toàn tỉnh đã xây dựng và hỗ trợ các điểm tiêm chủng ngoại trạm. Đồng thời, tiến hành khảo sát, đánh giá năng lực của nhân viên y tế chuyên ngành sản, nhi tại tuyến y tế cơ sở để có kế hoạch đào tạo, tuyển dụng phù hợp. Bổ sung số lượng nhân lực chuyên ngành sản, nhi tại các tuyến còn thiếu, đặc biệt là tuyến huyện. Duy trì hệ thống cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em tuyến tỉnh và xã theo phân tuyến kỹ thuật của Bộ Y tế; xây dựng và hỗ trợ hệ thống chuyển tuyến phù hợp. Tăng cường đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên ngành sản nhi.
Nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào DTTS, là nội dung 2 của Dự án 7 được xem là một nhiệm vụ quan trọng. Triển khai nội dung này, ngành Y tế Nghệ An đã đẩy mạnh nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản, tăng cường mạng lưới trạm y tế xã, đội y tế lưu động phục vụ vùng sâu, vùng xa. Đào tạo, nâng cao trình độ cán bộ y tế là người dân tộc để thuận lợi trong giao tiếp và tuyên truyền.
Cũng ở nội dung này, ngành Y tế đã đẩy mạnh việc lồng ghép nâng cao chất lượng dân số thông qua giáo dục và truyền thông dân số để thay đổi nhận thức, hành vi. Tăng cường chương trình giáo dục giới tính, sức khỏe sinh sản cho học sinh DTTS. Lồng ghép 3 nội dung dân số, bình đẳng giới vào các chương trình giáo dục phổ thông và giáo dục cộng đồng. Tổ chức các đợt chiến dịch truyền thông phù hợp với từng địa phương.
Thực hiện nội dung 3, ngành Y tế Nghệ An tiếp tục triển khai các hoạt động chăm sóc sức khỏe, dinh dưỡng bà mẹ - trẻ em nhằm giảm tử vong. Phối hợp thực hiện các cuộc giám sát hỗ trợ chuyên môn về dinh dưỡng tại các Trung tâm Y tế Anh Sơn, Con Cuông, Tân Kỳ.
Chỉ đạo các đơn vị tuyến dưới tiếp tục duy trì và triển khai hoạt động mô hình Chăm sóc dinh dưỡng trong 1.000 ngày đầu đời của trẻ. Hướng dẫn thực hành dinh dưỡng và tư vấn dinh dưỡng cho bà mẹ nuôi con nhỏ, người nuôi trẻ và bà mẹ mang thai. Tổ chức các lớp tập huấn đào tạo giảng viên chăm sóc dinh dưỡng 1.000 ngày đầu đời của trẻ cho cán bộ y tế 12 Trung tâm Y tế triển khai dự án.
Triển khai nội dung Dự án 7, việc chăm sóc sức khỏe phụ nữ và trẻ em Đan Lai ở xã Môn Sơn được quan tâm hơn Theo đánh giá của sở Y tế Nghệ An, việc triển khai Dự án 7, Chương trình MTQG 1719 đã mang lại hiệu quả tích cực, nối bật là tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động và trách nhiệm của các cấp ngành, của người dân. Góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần, đảm bảo an sinh xã hội trong vùng đồng bào DTTS và miền núi trên địa bàn tỉnh.
Công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em tại các xã triển khai Chương trình đã có nhiều chuyển biến tích cực, mạng lưới cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản được nâng cao mở rộng; các chỉ số về sức khỏe bà mẹ - trẻ em liên tục được cải thiện qua các năm, đặc biệt là số ca tử vong mẹ, tử vong trẻ em dưới 1 tuổi giảm rõ rệt.
Khắc phục khó khăn, bất cập
Tuy nhiên, việc triển khai Dự án 7 ở Nghệ An cũng đang có một số khó khăn, vướng mắc đặc biệt là về nguồn vốn giải ngân ảnh hưởng đến tiến độ, hiệu quả thực hiện. Như, nguồn kinh phí của Dự án này không phân khai cụ thể cho từng nội dung hoạt động, mà phân khai tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi địa phương.
Việc phân bổ nguồn vốn cho các đơn vị chuyên môn thực hiện chậm, cấp xã chưa thống nhất được đơn vị báo cáo, không đồng bộ đơn vị thực hiện nhiệm vụ ở địa phương. Việc giao đầu mối chưa thống nhất, một số địa phương thì do Văn phòng UBND xã là đơn vị thực hiện Dự án, một số xã do Trung tâm Y tế thực hiện.
Mặt khác, cộng tác viên y tế thôn bản kiêm nhiệm nhiều chương trình nhưng phụ cấp ít, ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em. Cô đỡ thôn bản tại các xã triển khai Chương trình còn ít, chưa đáp ứng được so với nhu của các địa phương. Đáng chú ý, quá trình thực hiện Dự án 7, do cũng chưa có các mô hình mẫu, các mẫu tài liệu truyền thông để phục vụ cho chương trình dẫn đến hiệu quả chưa cao.
Phụ nữ DTTS ở tỉnh Nghệ An được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản và làm mẹ an toàn Để khắc phục khó khăn, bất cập, phát huy hiệu quả Dự án 7, góp phần tích cực nâng cao chất lượng dân số vùng đồng bào DTTS và miền núi, Sở Y tế Nghệ An có những đề nghị gửi cấp Trung ương xem xét, điều chỉnh. Cụ thể, Sở đề nghị mở rộng mục tiêu của Dự án 7 không chỉ dừng lại ở chăm sóc sức khỏe sinh sản, phòng chống suy dinh dưỡng, bệnh di truyền, mà cần bao trùm các nội dung chăm sóc sức khỏe toàn diện cho đồng bào DTTS.
Sở Y tế Nghệ An cũng đề nghị, cấp trên cần phải bổ sung đối tượng thụ hưởng là người dân tại các vùng lõm y tế, vùng mới thoát khỏi khu vực III, nơi hạ tầng y tế còn yếu, chưa được tiếp cận đầy đủ dịch vụ cơ bản, tránh bỏ sót nhóm nguy cơ tái nghèo, thiệt thòi sau giai đoạn chuyển tiếp.
Đồng thời, xây dựng các mô hình truyền thông điểm, tổ chức tham quan học tập để nhân rộng tại địa phương. Cung cấp tài liệu mẫu và kinh phí hỗ trợ cho các chiến dịch truyền thông, bao gồm truyền thông trực tiếp và trang thiết bị phù hợp theo từng vùng.
Phó Giám đốc Sở Y tế Nghệ An Nguyễn Văn Thương cho rằng: Năm 2026, ngành sẽ tiếp tục tăng cường công tác y tế cơ sở để đồng bào DTTS được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại. Tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng đồng bào DTTS và miền núi. Từng bước cải thiện sức khỏe của người DTTS về thể chất và tinh thần, tầm vóc, tuổi thọ.
Tăng cường công tác Y tế cơ sở để đồng bào DTTS từng bước được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại. Tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng đồng bào DTTS và miền núi. Tăng cường khả năng tiếp cận của đồng bào DTTS đối với các dịch vụ chăm sóc có chất lượng về sức khỏe, dinh dưỡng cho bà mẹ, trẻ em, góp phần thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi ban hành theo Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 của Quốc hội.