Nói rồi, ông bày một bộ đồ nghề giản đơn chỉ gồm 3 chiếc búa, một chiếc dùi gõ có đầu bọc vải và lấy ra một số chiêng “đãi khách” thay cho những lời giải thích. Chỉ cần nhìn bộ dụng cụ là đã có thể đoán được quãng thời gian chúng gắn bó với ông. Phần dây quấn trên cán búa bong tróc nhưng vẫn được bọc trong miếng vải hết sức cẩn thận.
Ông cầm lên một chiếc chiêng hư, gõ mặt trước, mặt sau, gõ vòng tròn, gõ vào chính giữa, khi gõ mạnh, khi khẽ thăm dò. Sau mỗi nhịp gõ, ông dừng lại nghiêng tai lắng nghe âm thanh vang lên với độ cao, thấp khác nhau của từng chiếc lớn, nhỏ. Vầng trán lúc nhíu lại, khi giãn ra nhưng nghệ nhân không có vẻ gì sốt ruột. Nhịp gõ có khi lặp lại y như vòng xoang ngày hội, từ ngày sang đêm, từ đêm sang ngày nhưng không nhàm chán mà vẫn say mê. Từ nhạc cụ bằng đá, người Tây Nguyên đã chuyển sang nhạc cụ bằng đồng mà vẫn giữ nguyên cái hồn, khả năng thẩm âm độc đáo là nhờ có những nghệ nhân chỉnh chiêng tài hoa, thẩm âm chuẩn xác như vậy.
Thiếu vắng truyền nhân
Nghệ nhân Ksor Kok đi nhiều, tiếp xúc cồng chiêng ở nhiều vùng nên có một bề dày kinh nghiệm. Được chỉ dạy từ những bậc thầy chỉnh chiêng, lại có tài năng thiên bẩm nên có thể coi ông như “báu vật nhân văn sống” của cộng đồng. Tự hào với nghệ thuật cồng chiêng, tự hào khi là học trò của nghệ nhân Nay Phai bao nhiêu thì nghệ nhân Ksor Kok lại càng ưu tư bấy nhiêu khi nói về thế hệ kế thừa.
“Hơn 20 năm qua, thỉnh thoảng có người muốn theo học sửa tiếng cho chiêng nhưng người lâu nhất cũng chỉ ở với mình được 2 tháng thì bỏ cuộc. Vì vậy cho đến nay, cả vùng này không còn người biết chỉnh chiêng nào” - nghệ nhân Ksor Kok giãi bày. Ông cho rằng, sự đam mê, nhẫn nại, sống chậm mới giúp người trẻ ở lại tới cùng với nghề chỉnh chiêng. Nhưng đây là đòi hỏi rất khó đối với lớp trẻ Jrai bây giờ.
Một nỗi trăn trở khác của nghệ nhân này, đó chính là những kiến thức cồng chiêng và âm nhạc cồng chiêng mà ông đang nắm giữ, lại đang gần như bị quên lãng. Vài năm trở lại đây, hầu như ông chỉ sửa khoảng 4-5 bộ chiêng cải tiến, chiêng truyền thống và chiêng cổ gần như không còn. Điều đó cho thấy đời sống văn hóa đang thiếu vắng những lễ hội, những nghi thức truyền thống vốn gắn bó mật thiết với đời sống người Jrai từ khi sinh ra, lớn cho tới khi về với ông bà.
Liên quan đến vấn đề này, chị Rô H’Đa-công chức Văn hóa-Xã hội xã Chư Ngọc-cho biết: “Qua đợt kiểm kê cồng chiêng vừa rồi, vẫn còn một số gia đình lưu giữ chiêng truyền thống, chiêng cổ. Tuy nhiên, bà con rất ít khi sử dụng nên cũng không có nhu cầu chỉnh sửa. Thanh niên cũng không thích chơi chiêng này vì bài chiêng có nhịp điệu chậm, buồn và khó hơn nhiều so với dàn chiêng cải tiến. Chiêng mới có thang âm gần giống với đàn organ, có thể chơi được nhiều bài nhạc mới nên thu hút người trẻ hơn”.
Dòng chảy văn hóa của một trong hai dân tộc bản địa lớn nhất, sinh sống lâu đời nhất ở vùng hạ lưu sông Ba đang có sự biến đổi mạnh mẽ. Hình ảnh nghệ nhân Ksor Kok ngồi lặng lẽ bên hông nhà sàn chỉnh chiêng với những dụng cụ đơn giản, toát lên vẻ đẹp xưa cũ, u hoài, ngày càng khó gặp, khó tìm.
“Khôi phục và duy trì các lễ hội, mở các lớp truyền dạy cồng chiêng và chỉnh chiêng ngay tại cộng đồng, nếu không, cồng chiêng Jrai và các giá trị văn hóa truyền thống sẽ không tránh khỏi mai một”-Phó Chủ tịch UBND xã Chư Ngọc đã nói như vậy.
Nhưng ai sẽ làm việc này và làm như thế nào khi tất cả đều quy vào nguồn kinh phí dành cho công tác văn hóa luôn quá hạn hẹp thì lại là điều mà ông chưa trả lời được.