Nghề làm gốm của người Gia Rai trong truyền thống chủ yếu do người phụ nữ đảm nhiệm. Ngày nay, trước những biến đổi xã hội, nam giới đã và đang tham gia vào việc làm gốm. Sản phẩm làm ra chủ yếu sử dụng thường ngày trong gia đình, ngoài ra còn làm vật trao đổi với người dân trong vùng để lấy hàng hóa, thổ cẩm.
Nguyên liệu làm gốm chủ yếu từ đất sét. Để sản phẩm đạt chất lượng tốt, khâu tuyển chọn nguyên liệu giữ vai trò cực kỳ quan trọng, do đó người lấy đất sét đòi hỏi phải là người có kinh nghiệm, chọn những loại đất có độ mịn, dẻo cao. Đất sét sau khi lấy về được tán nhuyễn, trộn thêm cát mịn theo tỉ lệ khoảng 80 - 85% sét với 15 - 20% cát và một ít nước, dùng tay nhào nặn thật nhuyễn, loại bỏ tạp chất và sạn sỏi. Ông Rơ Châm Hiêng (làng Yăng 3, xã Ia Phí, huyện Chư Păh, tỉnh Gia Lai) cho biết: Nguyên liệu làm gốm phải có sự pha trộn giữa sét và cát mịn theo tỉ lệ nhất định, nếu sét không pha cát hoặc pha không đúng tỉ lệ, khi nung sản phẩm sẽ dễ bị nứt.
Cũng giống như các dân tộc khác ở vùng Trường Sơn - Tây Nguyên, dụng cụ làm gốm hết sức đơn giản, chỉ với một cái đôn gỗ cao khoảng 50 - 70cm dùng làm bệ đỡ; một thanh tre chuốt mỏng hoặc uốn cong (gọi lài Kong) để cạo mỏng thân gốm, làm láng và nạo lòng; một mảnh vải nhỏ để be chuốt bề mặt và một viên cuội nhỏ để đánh láng sau khi sản phẩm được phơi khô. Không máy móc, không bàn xoay, không khuôn đúc, tất cả đều phụ thuộc vào độ khéo léo của đôi tay và sự uyển chuyển của nghệ nhân để tạo nên những hình khối mang đậm dấu ấn cá nhân. Người Gia Rai làm gốm không bàn xoay, để tạo hình sản phẩm họ đặt nguyên liệu lên bệ đỡ và đi quanh theo chiều kim đồng hồ vừa vuốt vừa nắn tạo nên hình dáng cho sản phẩm; sau đó người thợ dùng Kong để nạo lấy phần nguyên liệu ở lòng sản phẩm và làm mỏng thân gốm, tiếp theo dùng mảnh vải nhỏ thấm nước chuốt quanh để làm đều bề mặt. Công đoạn cuối cùng của việc tạo hình là trang trí cho sản phẩm. Người thợ dùng que vót nhọn hoặc lông nhím để khắc vẽ hoa văn, họa tiết trên gốm khá đơn giản chủ đề trang trí chủ yếu là dạng hoa văn hình học, cỏ cây hoặc đắp nổi các con vật như: thằn lằn, cóc…
Sau khi hoàn thành công đoạn tạo hình, người ta đem sản phẩm phơi khô, có nơi gác dàn bếp khoảng 4 - 5 ngày chờ sản phẩm khô cứng, rồi dùng viên đá nhỏ để đánh láng bề mặt bên ngoài, sau đó đem nung. Người Gia Rai không sử dụng lò nung mà chỉ nung lộ thiên. Họ chất sản phẩm thành cụm trên nền đất trống, phủ rơm hoặc cây rừng rồi đốt lửa khoảng 2 - 4 tiếng tùy theo độ nhiệt và sức gió. Gốm của người Gia Rai không tráng men. Gốm sau khi nung chín được vùi vào vỏ trấu, sau lấy ra và đó quét thêm một lớp nước cây rừng, người Gia Rai gọi là cây nung. Họ dùng võ cây nung đập dập và ngâm nước, sau một thời gian nước chuyển thành màu tím đen thì quét lên toàn bộ sản phẩm gốm. Sản phẩm gốm sau đó tiếp tục phơi nắng hoặc gác dàn bếp khoảng 15 ngày thì có thể đưa ra sử dụng. Những vệt cháy đen kết hợp với nước cây nung và ám khói gác giàn bếp đã tạo nên những sản phẩm độc đáo của sự giản di, thô mộc bền chắc. Có thể nói, việc dùng viên đá nhỏ đánh bóng, vùi võ trấu và quét lớp nước cây nung, đặc biệt quét lớp nước cây nung là điểm khác biệt của người Gia Rai so với các dân tộc khác. Loại dung dịch này vừa tạo màu đen làm đẹp cho sản phẩm vừa có tác dụng như một lớp men để bảo vệ xương gốm được bền chắc hơn.
Trước đây, sản phẩm làm ra chủ yếu là các loại nồi tròn có miệng dùng để nhuộm màu sợi vải, dùng trong việc nấu cơm, thức ăn hoặc là những chiếc ché với họa tiết đơn giản sử dụng để ủ rượu cần hoặc làm vật hiến tế trong các nghi thức tín ngưỡng. Ngày nay, sản phẩm làm ra đa dạng hơn một mặt phục vụ cho cuộc sống hàng ngày, mặt khác còn làm đồ lưu niệm, để du khách trải nghiệm phục vụ du lịch cộng đồng. Tuy nhiên, với sự tiện lợi từ các vật dụng hiện đại, số lượng người biết làm gốm ngày càng lớn tuổi, việc trao truyền giữa các thế hệ không có sự kế thừa làm cho nghề làm gốm có nguy cơ mai một cao. Do đó, việc bảo tồn và phát huy giá trị nghề gốm truyền thống của người Gia Rai là việc quan trọng và cấp thiết, đòi hỏi sự nỗ lực của cá nhân, tổ chức và đặc biệt là sự tham gia của cộng đồng. Cần tạo điều kiện để cộng đồng vừa là người thực hành di sản, hưởng thụ di sản và hưởng lợi từ di sản, khi đó giá trị cốt lõi của việc bảo tồn nghề gốm truyền thống mới bền chặt.