Analytic
Thứ Sáu, ngày 23 tháng 08 năm 2019, 09:25:27

Hành trình của một thương hiệu quốc tế về giảm nghèo: Chương trình của “ý Đảng, lòng dân” (Bài 1)

Khánh Thi - 10:45, 24/10/2022

LTS: Chương trình phát triển kinh tế - xã hội (KT – XH) các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa được phê duyệt tại Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg (Chương trình 135). Sau hơn 20 năm (1998 – 2020), qua 3 giai đoạn triển khai thực hiện, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, huy động được nguồn lực tối đa và được đồng bào các DTTS hưởng ứng tích cực, Chương trình 135 đã trở thành một thương hiệu về giảm nghèo của Ủy ban Dân tộc nói riêng, của Việt Nam nói chung, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Nhìn lại những dấu ấn trong thành tựu chung của Chương trình, là việc cần thiết để có thêm kinh nghiệm thực hiện tốt hơn các chính sách dân tộc trong giai đoạn mới, mà trọng tâm là Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT - XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030.

Chương trình 135 góp phần làm thay đỏi diện mạo vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Chương trình 135 góp phần làm thay đổii diện mạo vùng đồng bào DTTS và miền núi.

Chương trình 135 lần đầu tiên được phê duyệt trong bối cảnh tình hình KT - XH của nước ta vô cùng khó khăn. Thực hiện nguyên tắc “Bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển”, Đảng, Nhà nước ta đã quyết tâm ưu tiến bố trí nguồn lực để thực hiện một chương trình giảm nghèo dài hơi cho vùng đồng bào DTTS và miền núi, được đồng bào các dân tộc ghi nhận.

Quyết tâm của cả hệ thống chính trị

Theo dữ liệu của Tổng cục Thống kê (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), năm 1998, tình hình KT - XH của nước ta chịu tác động nặng nề bởi cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực. Cuộc khủng hoảng này bắt đầu từ Thái Lan lan sang Hàn Quốc, Indonesia,... Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đang ở mức cao trong thời kỳ 1995 - 1997, thì đến năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm 1999 chỉ tăng 4,77%; lạm phát năm 1997 ở mức 3,6%, năm 1998 tăng lên mức 9,2%;...

Quyết tâm vươn lên thoát khỏi đói nghèo không chỉ là ý chí của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương mà đã trở thành suy nghĩ của từng hộ nghèo. Nhờ đó, năm 2006, Việt Nam đã tuyên bố hoàn thành Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về về xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và thiếu đói, về đích trước 10 năm so với thời hạn (năm 2015).

Mặc dù gặp vô vàn khó khăn nhưng công tác giảm nghèo vẫn được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt, nhờ đó đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Nhiều người nghèo ở vùng khó khăn được hưởng thành quả của chương trình xoá đói giảm nghèo (XĐGN) đã thoát khỏi ngưỡng nghèo; hộ nghèo về lương thực thực phẩm có xu hướng giảm xuống. Tính chung toàn quốc, tỷ lệ hộ nghèo năm 1999 là 13,33%, giảm hơn so các năm trước (năm 1993: 19,99%; 1994: 17,81%; 1995: 16,5%; 1996: 15,7%; 1997-1998: 14,98%).

Theo đánh giá của Tổng cục Thống kê, tuy hộ đói nghèo giảm, nhưng tình trạng phân hoá giàu nghèo trong dân cư vẫn có xu hướng gia tăng cả ở khu vực thành thị, nông thôn. Đặc biệt, về thu nhập của người dân ở vùng đồng bào DTTS và miền núi có một khoảng cách rất xa so với các vùng khác trên cả nước.

Kết quả điều tra đời sống - kinh tế hộ gia đình năm 1999 ở 61 tỉnh/thành phố của Tổng cục Thống kê cho thấy, thu nhập bình quân cả nước lúc đó là 295 nghìn đồng/người/tháng. Vùng có thu nhập bình quân cao nhất là Đông Nam bộ, đạt 527,8 nghìn đồng/người/tháng. Các vùng có đông đồng bào DTTS sinh sống thì có thu nhập bình thấp hơn bình quân cả nước (Trung du miền núi phía Bắc là 210 nghìn đồng/người/tháng; Bắc Trung Bộ là 212,4 nghìn đồng/người/tháng; Duyên hải Nam Trung Bộ là 252,8 nghìn đồng/người/tháng;…).

Thực tế đó đã thôi thúc quyết tâm XĐGN, nâng cao thu nhập ở các địa bàn “lõi nghèo” của cả hệ thống chính trị. Dẫu nguồn lực còn hạn chế, lại phải ứng phó với khủng hoảng kinh tế nhưng trong năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt 02 chương trình XĐGN có tính chất bao trùm. 

Ở góc độ cả nước, đó là Chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN giai đoạn 1998 - 2000 theo Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998. Ở góc độ vùng là Chương trình phát triển KT - XH các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa tại Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg (Chương trình 135).

Chương trình 135 đã huy động được nguồn lực lớn từ Nhân dân. (Ảnh minh họa)
Chương trình 135 đã huy động được nguồn lực lớn từ Nhân dân. (Ảnh minh họa)

Từ đây, công cuộc XĐGN ở vùng đồng bào DTTS và miền núi của nước ta, thực sự bứt phá. Một hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, trong đó xuyên suốt là Chương trình 135, đã được ban hành, triển khai. Tính đến hết tháng 10/2020, toàn vùng có 118 chính sách đang có hiệu lực thi hành.

Tại buổi công bố Báo cáo “Đánh giá thực trạng nghèo và bình đẳng của Việt Nam năm 2022 - Từ chặng đường cuối đến chặng đường kế tiếp” tổ chức ngày 28/4/2022 tại Hà Nội, bà Carolyn Turk, Giám đốc Quốc gia Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, khẳng định, Việt Nam đã đạt được những tiến triển chưa từng có về KT - XH trong vòng chưa đầy nửa thế kỷ qua kể từ sau khi kết thúc chiến tranh. Tăng trưởng ở Việt Nam nhìn chung có tính chất bao trùm, do những cải thiện về phúc lợi đạt được trên toàn bộ phân bố kinh tế hộ gia đình. Sự thoát nghèo diễn ra đồng đều ở hầu hết các nhóm, và nhiều gia đình thoát nghèo chỉ trong vòng một thế hệ.

Chương trình của lòng dân

Theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg, Chương trình 135 giai đoạn I (1999 - 2005) được bắt đầu từ 1.000 xã nghèo nhất thuộc 91 huyện (trong đó có 43 huyện trọng điểm đặc biệt khó khăn) của 31 tỉnh (trong đó có 7 tỉnh trọng điểm đặc biệt khó khăn). Chương trình tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến 422.802 hộ/2.573.845 khẩu, đại đa số là đồng bào DTTS.

Trong giai đoạn này, Chương trình tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng để thúc đẩy phát triển KT – XH. Sau 7 năm triển khai thực hiện, tính đến năm 2005, Chương trình 135 đã xây dựng được 20.026 công trình hạ tầng, hoàn thành 300 trung tâm cụm xã đưa vào sử dụng, hoàn thành trên 50.000km đường các loại, 96% số xã có đường ôtô đến trung tâm xã.

Hợp phần hỗ trợ sản xuất của Chương trình 135 giúp hàng triệu hộ đồng bào DTTS có sinh kế ổn định, vươn lên thoát nghèo.
Hợp phần hỗ trợ sản xuất của Chương trình 135 giúp hàng triệu hộ đồng bào DTTS có sinh kế ổn định, vươn lên thoát nghèo.

Tiếp nối thành công của giai đoạn I, Chương trình 135 giai đoạn II được triển khai thực hiện từ năm 2006 – 2010; trọng tâm là hỗ trợ phát triển sản xuất, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị trường, nâng cao mức sống của người dân ở địa bàn đặc biệt khó khăn.

 Trong giai đoạn này, Chương trình đã xây dựng 4.125 mô hình phát triển nông nghiệp, ngư nghiệp; xây dựng trên 12.000 dự án đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ cơ sở… Chương trình được triển khai thực hiện trên 1.848 xã và 3.274 thôn đặc biệt khó khăn thuộc các xã khu vực II.

Trong giai đoạn III (2011 – 2020), Chương trình 135 có sự thay đổi so với hai giai đoạn trước. Chương trình không chỉ đầu tư, hỗ trợ phát triển KT - XH mà còn tập trung vào giảm nghèo ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hóa, tăng thu nhập, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các DTTS; giảm chênh lệch về khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và các vùng trong cả nước.

Sau hơn 20 năm triển khai, Chương trình 135 đã trở thành một thương hiệu về giảm nghèo, được cộng đồng quốc tế ghi nhận. Đặc biệt, các nhà tài trợ ngân sách cho Chương trình (Ngân hàng Thế giới, Phần Lan, Irelan, AusAid, EC, UNDP...) đánh giá đây là chương trình giảm nghèo toàn diện nhất của Việt Nam, là mô hình học tập của các quốc gia nghèo.

Như chia sẻ của ông Matthew Wai-Poi, chuyên gia kinh tế chính thuộc Ban Nghèo và Bình đẳng của Ngân hàng Thế giới tại buổi công bố Báo cáo “Đánh giá thực trạng nghèo và bình đẳng của Việt Nam năm 2022 - Từ chặng đường cuối đến chặng đường kế tiếp” tổ chức ngày 28/4/2022, rằng: “Chương trình nghị sự về nghèo đói và bình đẳng không còn chỉ là nâng cao mức sống tối thiểu và giải quyết tình trạng nghèo kinh niên, mà còn là tạo ra hướng kinh tế mới và bền vững cho một nhóm dân cư có khát vọng cao hơn”.

Chương trình 135 góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sóng vật chất và tình thần cho người dân ở địa bàn đặc biệt khó khăn.
Chương trình 135 góp phần hoàn thiện cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sóng vật chất và tình thần cho người dân ở địa bàn đặc biệt khó khăn.

Đặc biệt, qua kết quả kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước, Chương trình 135 là chương trình thu hút được sự tham gia sâu rộng nhất của người dân trong quá trình lập kế hoạch, ra quyết định, thực hiện và giám sát. Năm 2008, số liệu điều ra của Kiểm toán Nhà nước tại 10 tỉnh, qua phát phiếu và phỏng vấn 2.083 người dân cho thấy, 98,13% người dân được biết có Chương trình 135 đầu tư cho xã; 86% người dân được hỏi ý kiến khi dự án được đầu tư; 94% người dân cho rằng công trình, dự án của Chương trình 135 được đầu tư là hợp lý; 95% người dân đánh giá công trình 135 đầu tư sử dụng đúng mục đích; 70% người dân được tham gia học tập về Chương trình; 97% người dân cho rằng nên kéo dài thời gian thực hiện Chương trình 135…

Hợp lòng dân nên ngoài ngân sách Nhà nước và tài trợ quốc tế, dù triển khai ở địa bàn đặc biệt khó khăn nhưng Chương trình 135 đã huy động được nguồn lực lớn từ Nhân dân. Giai đoạn 2011 - 2020, theo Báo cáo số 855/BC-UBDT, ngày 3/6/2022 của Ủy ban Dân tộc về tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, đóng góp của người dân trong xây dựng các công trình hạ tầng Chương trình 135 đạt 799,896 tỷ đồng.

Trước đó, trong giai đoạn II, theo Báo cáo số 49/BC-CP ngày 6/5/2010 của Chính phủ, bình quân mức đóng góp của dân chiếm từ 10 - 15 % tổng mức đầu tư các công trình, dự án. Điển hình là các tỉnh Cao Bằng, Lào Cai, Yên Bái, Bắc Giang, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Sóc Trăng, Bạc Liêu... Cá biệt có công trình cộng đồng đóng góp trên 50% giá trị (một số công trình nhà sinh hoạt công đồng của Yên Bái). Người dân đóng góp chủ yếu bằng ngày công lao động, hiến đất xây dựng công trình, vật liệu khai thác tại chỗ,...

Chương trình 135 trở thành một thương hiệu về giảm nghèo, được Nhân dân ghi nhận, cộng đồng quốc tế đánh giá cao và được nhiều Chính phủ, tổ chức quốc tế đến tham quan, học tập là nhờ đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch, ít thất thoát nhất, hiệu quả nhất. Đây là kinh nghiệm cần được đúc rút để thực thi chính sách dân tộc trong giai đoạn 2021 - 2025.

Báo Dân tộc và Phát triển sẽ phản ánh nội dung này trong số báo tiếp theo.

Ý kiến độc giả
Mã bảo mật
Tin cùng chuyên mục
Vùng đồng bào DTTS Tây Ninh ngày càng khởi sắc

Vùng đồng bào DTTS Tây Ninh ngày càng khởi sắc

Những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước thông qua các chương trình, dự án, chính sách dân tộc, sự lãnh đạo, chỉ đạo tích cực của các cấp ủy Đảng, chính quyền và sự nỗ lực phấn đấu của Nhân dân, đời sống kinh tế - xã hội, văn hóa vùng đồng bào DTTS tỉnh Tây Ninh ngày càng khởi sắc.
Tin nổi bật trang chủ
Bất chấp quy định pháp luật, nhiều người dân vùng cao vẫn trồng cây thuốc phiện

Bất chấp quy định pháp luật, nhiều người dân vùng cao vẫn trồng cây thuốc phiện

Pháp luật - Minh Nhật - 10 giờ trước
Thời gian qua, lực lượng chức năng các tỉnh Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang, Cao Bằng, Điện Biên, Sơn La....liên tục phát hiện nhiều trường hợp người dân trồng trái phép hàng chục nghìn cây thuốc phiện trên địa bàn. Có đối tượng còn bất chấp pháp luật ngang nhiên trồng cây thuốc phiện trong vườn nhà ở ngay khu phố thị.
Quảng Ngãi: Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình MTQG 1719 làm động lực để phát triển vùng đồng bào DTTS và miền núi

Quảng Ngãi: Tập trung triển khai hiệu quả Chương trình MTQG 1719 làm động lực để phát triển vùng đồng bào DTTS và miền núi

Công tác Dân tộc - T.Nhân-H.Trường (Thực hiện) - 10 giờ trước
Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030, giai đoạn I từ 2021-2025 (Chương trình MTQG 1719) là một Chương trình ý nghĩa, là động lực để vùng đồng bào DTTS và miền núi phát triển đi lên. Trong thời gian qua, tỉnh Quảng Ngãi đã tích cực triển khai nhiều dự án, tiểu dự án từ Chương trình. Nhờ đó, diện mạo vùng miền núi có nhiều khởi sắc, đời sống của đồng bào có những thay đổi tích cực. Phóng viên Báo Dân tộc và Phát triển đã có cuộc trò chuyện với ông Hồ Ngọc Thịnh, Trưởng Ban Dân tộc tỉnh Quảng Ngãi về việc triển khai Chương trình tại địa phương.
Ca sĩ dân tộc Nùng Sèn Hoàng Mỹ Lam và tình cảm đặc biệt với Điện Biên

Ca sĩ dân tộc Nùng Sèn Hoàng Mỹ Lam và tình cảm đặc biệt với Điện Biên

Giải trí - Minh Nhật - 10 giờ trước
Sèn Hoàng Mỹ Lam là cô gái dân tộc Nùng ở Lào Cai. Mỹ Lam từng đăng quang ngôi vị Quán quân dòng nhạc dân gian trong cuộc thi Sao Mai - Điểm hẹn 2017 và đoạt giải Quán quân của cuộc thi Người hát tình ca năm 2018.
Hà Nội: Yêu cầu 40 doanh nghiệp trông giữ xe phải áp dụng công nghệ, không sử dụng tiền mặt

Hà Nội: Yêu cầu 40 doanh nghiệp trông giữ xe phải áp dụng công nghệ, không sử dụng tiền mặt

Xã hội - Minh Nhật - 10 giờ trước
Sở Giao thông Vận tải (GTVT) Hà Nội vừa có văn bản yêu cầu 40 doanh nghiệp trông xe trên địa bàn thành phố báo cáo về kế hoạch thực hiện công nghệ trong việc thu phí đỗ xe trước ngày 30/3.
Tăng cường công tác phòng, chống các bệnh lây truyền từ động vật sang người

Tăng cường công tác phòng, chống các bệnh lây truyền từ động vật sang người

Sức khỏe - Thúy Hồng - 10 giờ trước
Ngày 27/3, tại Hà Nội, Bộ Y tế phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức “Hội nghị trực tuyến liên ngành tăng cường công tác phòng, chống các bệnh lây truyền từ động vật sang người năm 2024”, với sự tham gia của đại diện Lãnh đạo các cơ quan Trung ương, Lãnh đạo UBND các tỉnh, thành phố và Lãnh đạo các đơn vị của ngành Y tế và ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tại Trung ương và địa phương.
Liên kết sản xuất giúp đồng bào DTTS thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp

Liên kết sản xuất giúp đồng bào DTTS thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp

Thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 3, thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025 (gọi tắt là Chương trình MTQG 1719), huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum đã hỗ trợ và triển khai xây dựng nhiều mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp. Qua đó, giúp đồng bào DTTS thay đổi tư duy, biết áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng và có nguồn thu nhập ổn định.
Giao xe cho con chưa đủ tuổi gây tai nạn, người mẹ lãnh án 24 tháng tù treo

Giao xe cho con chưa đủ tuổi gây tai nạn, người mẹ lãnh án 24 tháng tù treo

Pháp luật - Ngọc Thu - 10 giờ trước
Ngày 27/3, Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Chư Prông, tỉnh Gia Lai mở phiên tòa xét xử lưu động, đồng thời tuyên phạt bị cáo Rơ Mah Pil (38 tuổi, xã Ia Lâu) 24 tháng tù treo về tội “Giao cho người không đủ điều kiện điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ”.
Nắng hạn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp ở Lâm Đồng

Nắng hạn gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp ở Lâm Đồng

Kinh tế - Minh Thu - 10 giờ trước
Theo thống kê từ ngành nông nghiệp tỉnh Lâm Đồng, trong 3 tháng đầu năm 2024, lượng mưa trung bình trên địa bàn toàn tỉnh đạt thấp, chỉ bằng khoảng 20% so với cùng kỳ năm trước. Cùng với đó, số ngày nắng nóng tiếp tục tăng, biên độ nhiệt thay đổi giữa ngày và đêm lớn. Mực nước trên các sông suối đang giảm dần, nhất là các suối nhỏ đang giảm mạnh. Gây khó khăn cho tưới tiêu và sản xuất nông nghiệp.
Hai Nghệ nhân Nhân dân tiêu biểu của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng

Hai Nghệ nhân Nhân dân tiêu biểu của đồng bào Khmer tỉnh Sóc Trăng

Sắc màu 54 - Nguyệt Anh - 10 giờ trước
Sóc Trăng là tỉnh tập trung khá đông đồng bào Khmer sinh sống (tỷ lệ trên 30%). Đồng bào Khmer trên địa bàn tỉnh có đời sống văn hóa tinh thần phong phú, giàu bản sắc, được truyền nối qua nhiều thế hệ. Trong cộng đồng có những hạt nhân ưu tú đã và đang miệt mài, cần mẫn đóng góp tâm sức để làm giàu cho kho tàng di sản văn hóa dân tộc, tiêu biểu như hai Nghệ nhân Nhân dân Châu Ôn và Lý Lết.
Liên kết sản xuất giúp đồng bào DTTS thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp

Liên kết sản xuất giúp đồng bào DTTS thay đổi tư duy sản xuất nông nghiệp

Media - Ngọc Chí - 11 giờ trước
Thực hiện Tiểu dự án 2, Dự án 3, thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025 (gọi tắt là Chương trình MTQG 1719), huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum đã hỗ trợ và triển khai xây dựng nhiều mô hình liên kết sản xuất nông nghiệp. Qua đó, giúp đồng bào DTTS thay đổi tư duy, biết áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất, nâng cao năng suất cây trồng và có nguồn thu nhập ổn định.
Trà Bồng (Quảng Ngãi): Trao sinh kế, chỉ cách thoát nghèo cho người dân

Trà Bồng (Quảng Ngãi): Trao sinh kế, chỉ cách thoát nghèo cho người dân

Công tác Dân tộc - T.Nhân - 11 giờ trước
Không chỉ hỗ trợ cây, con giống để người dân nghèo có tư liệu sản xuất, huyện Trà Bồng (Quảng Ngãi) còn phân công cơ quan, đơn vị giúp đỡ hộ nghèo, hộ cận nghèo tại các xã có tỷ lệ hộ nghèo trên 30%. Đây là giải pháp nhằm huy động mọi nguồn lực giúp người dân vươn lên thoát nghèo bền vững của huyện Trà Bồng giai đoạn 2022 – 2025.