Lưu luyến bản vùng cao
Sáng đầu Thu tiết trời heo may thật là biết chiều lòng người. Bởi thế, chuyến đi hơn 100km từ TP. Bắc Giang đến bản Bắc Hoa của chúng tôi càng thêm hứng khởi. Đường dài, rừng núi hoang vu nhưng cảm giác được hòa quyện cùng thiên niên, thác nước, hồ Cấm Sơn và cả hương lúa đồng dìu dịu ngan ngát cộng thêm một chút se lạnh... như xua đi bao mệt mỏi. Một cảm xúc thật kỳ lạ khi lần nữa được cùng ăn, cùng ở với đồng bào các DTTS nơi đây.
Đọng lại nhiều cảm xúc nhất với tôi là được ở trong ngôi nhà trình tường rất đặc trưng. Từ nhà ở, bếp, công trình phụ, tường rào, chuồng trại chăn nuôi... tất cả đều làm bằng đất. Có lẽ đây là bản làng hiếm hoi ở Bắc Giang còn giữ được rất nhiều những ngôi nhà đất lợp ngói âm dương. Dẫu rằng cuộc sống luôn có sự vận động, phát triển nhưng theo thời gian, kiến trúc tường đất ở Bắc Hoa chưa bị mất đi và điểm đến mới mẻ này dường như vẫn còn là một ẩn số chờ đợi bước chân khám phá của nhiều du khách.
Theo Bí thư Chi bộ thôn Hoàng Ngọc Phiên: Bắc Hoa hiện nay có khoảng 160 gia đình với hơn 700 người (100% dân tộc Nùng). Thôn có gần 100 ngôi nhà trình tường nằm trên một khu đồi, trước mặt là cánh đồng ruộng bậc thang tạo thành một quần thể kiến trúc độc đáo. Nhiều ngôi nhà có niên đại bằng mấy đời người.
Đến Bắc Hoa, du khách ngoài chiêm ngưỡng cảnh đẹp thiên nhiên còn được xem người dân dệt khăn, áo chàm thủ công truyền thống và thưởng thức món ngon đặc sản. Cách đây 2 năm, tôi đã đến Bắc Hoa vào mùa Xuân, khi ấy mảnh đất này nổi bật hơn trong sắc hoa mận, hoa mơ đang thời nở rộ. Lắng nghe tiếng sáo, tiếng hát Soong hao gọi bạn tình của các chàng trai, cô gái người Nùng từ các ngả núi vang lên tha thiết, tôi đã tự nhủ lòng nhất định có ngày sẽ trở lại và nay đã thành hiện thực.
Tôi cũng biết tháng Ba, Bắc Hoa tràn ngập sắc đỏ rực rỡ từ những hàng cây gạo cổ thụ mọc bên đường, những vườn đồi cây ăn quả xanh mướt là thành quả với biết bao công tưới trồng, “một nắng hai sương” của những người nông dân hay lam, hay làm.
Mùa Hè người dân thu hoạch vải thiều, cam, nhãn... khắp nơi đều là quả ngọt. Vào mùa Thu, không gì sánh được bởi bạt ngàn những ruộng hoa cải cúc đủ sắc màu. May mắn hơn, nếu đến đây và đúng dịp chợ phiên Thác Lười sẽ thấy được những bản sắc dân tộc đậm đà, phong phú. Có nhiều hàng hóa tại chợ, những cụ già bán hương nở nụ cười tươi. Cô hàng xén đon đả mời chào khách...
Mỗi tháng, chợ Tân Sơn họp 5 phiên vào các ngày 2, 7, 12, 17, 22 âm lịch. Đa phần bà con bán những sản phẩm “của nhà làm ra” như con gà, mớ rau, bó củi, quả trứng... để mua về những vật dụng thiết yếu. Đi chợ với đồng bào không chỉ để mua bán, trao đổi, mà còn là cơ hội để gặp gỡ, tâm tình, khoe tài khoe sắc và nhất là hát giao duyên. Tất cả đều chứa đựng hồn quê mộc mạc, giản dị và sự chất phác thật thà.
Chúng tôi tá túc nhờ 1 đêm trong ngôi nhà đất 3 gian lợp ngói âm dương của gia đình ông Vi Văn Sắt (58 tuổi). Ngôi nhà có tuổi thọ gần 40 năm, nằm chênh vênh trên sườn núi. Trước mắt tôi, từng bức tường đất đơn sơ phủ đầy rong rêu, đâu đó có vết nứt chưa được duy tu. Ngôi nhà không chỉ là tài sản của vợ chồng ông Sắt, mà còn là kỷ niệm gắn bó qua tháng năm, mưa nắng. Chẳng thế mà giờ đây ông bà đã có cháu nội, cháu ngoại nhưng ngôi nhà vẫn là chốn đi về của người thân trong gia đình mỗi dịp lễ, tết.
Tình người qua những ngôi nhà
Năm 18 tuổi chàng thanh niên Sắt xây dựng gia đình với cô gái dân tộc Nùng đẹp người, đẹp nết nhất vùng đất vải. Sau khi cưới vợ, chàng thanh niên Sắt xin phép bố mẹ cho ra ở riêng và tạo dựng cuộc sống mới. Rồi người đàn ông ấy cũng hăm hở tự mình đi tìm một khoảnh đất trên đồi cao cho vừa mắt để cắm đất dựng nhà.
Đồ đạc trong nhà ông Sắt không có gì đáng kể ngoài 1 chiếc bàn uống nước, 2 chiếc giường và chiếc Tivi đã cũ. Bữa tối được bầy ra trong căn nhà nhỏ thật ấm cúng. Chủ nhà rót chén rượu men lá dậy mùi thơm nồng. Cạn chén rượu, ông Sắt kể: Người Nùng trong bản sống quây quần gần nhau, nhà nọ sang nhà kia chỉ ngăn bằng một hàng cây hay rãnh nước. Bà con sống đoàn kết và đùm bọc, san sẻ khó khăn với nhau.
Ở bản Bắc Hoa, hễ gia đình nào làm nhà thì anh em, họ hàng, láng giềng xúm vào giúp đỡ. Đàn ông thì đào đất, trình tường, dựng cột, lợp mái, còn phụ nữ thì lo chuyện cơm nước, dọn dẹp vòng ngoài. Việc giúp đỡ này hoàn toàn là tình nghĩa theo kiểu “chị trước em sau”, gia chủ không cần phải trả tiền công.
Sau bữa tối bên những ly rượu men lá mềm môi, cũng là lúc trời đã vào khuya, chúng tôi ngả lưng xuống chiếc giường đã cũ trong căn nhà đất. Tuy có hơi “lạ nhà”, nhưng mọi người nhanh chóng đi vào giấc ngủ. Mới tờ mờ sáng, ngoài trời còn u ám hơi sương, tôi bị đánh thức bởi những tiếng vó ngựa lộc cộc xuống nền đất. Chủ nhà cũng đã tỉnh giấc từ hồi nào để chuẩn bị bữa sáng.
Chúng tôi chia tay Bắc Hoa khi mặt trời đã lên cao, vợ chồng ông Sắt tiễn khách với nụ cười và những cái bắt tay thật chặt. Trong tôi bỗng gợn lên một suy nghĩ chưa thể lý giải nổi, phải chăng vì đã quen hay tại nghèo khó mà đồng bào vẫn ở nhà trình tường đất suốt bao năm qua. Biết đâu một ngày nào đó khi cuộc sống khấm khá hơn họ sẽ phá bỏ nhà đất để xây nhà bê tông? Thực lòng thì tôi vẫn mong rằng, bằng cách nào đó bà con nơi đây có thể bảo tồn những kiến trúc độc đáo ấy cho mai sau.
Và tôi cũng nhận ra, trong đôi mắt ông Sắt ánh lên một niềm tin về một tương lai tươi sáng, khi du lịch cộng đồng Bắc Hoa phát triển. Hy vọng một ngày không xa Bắc Hoa sẽ có tên trong bản đồ du lịch của Việt Nam, nhất là du lịch cộng đồng, sinh thái.