Đời "du mục" trên lòng hồ
Trên con suối Đắk Hil thuộc địa bàn 2 xã Nam Ka và Krông Nô (huyện Lak, Đăk Lăk) có khoảng gần 30 chiếc thuyền của 38 hộ dân bám víu vào nhau để sống qua ngày. Đây là một xóm chài nhỏ bé được hình thành vào năm 2009, khi một vài người dân các tỉnh miền Tây tìm đến mưu sinh. Và rồi khi thủy điện buôn Tua Srah xây dựng trên địa phận xã Nam Ka , quá trình tích nước hồ chứa đã làm con suối Dak Hil dâng nhiều nước hơn, từ đó xuất hiện làng chài này.
Những người ngược xuôi trên cao nguyên, khi đi qua đây ai cũng dễ dàng nhìn thấy những chiếc bè cũ kỹ nằm ngang dọc dưới chân cầu Nam Ka. Cư dân làng chài đóng thuyền, dựng nhà ngay trên mặt nước. Mỗi nhà rộng chừng 15-20 m2, nóc lợp bằng mái tôn, xung quanh được phủ kín bằng bạt ni lông hoặc ván gỗ. Phía dưới sàn nhà sử dụng 9 - 10 thùng phi nhựa bịt kín hơi, buộc chặt vào nhau thả dưới mặt nước để nhà luôn luôn nổi khi nước lên, nước xuống rồi đóng neo cố định một chỗ.
Cứ 4-5 giờ chiều mỗi ngày, người dân làng chài lại chèo thuyền ra xa thả lưới, đốt đèn đuổi cá đến tận đêm khuya, sáng sớm tinh mơ phải dậy gỡ cá cho kịp thương lái thu mua. Trung bình mỗi chuyến đánh bắt, người dân đánh bắt được từ 10 - 15 kg cá, chủ yếu là lóc, cá bống, rô phi..., mỗi tháng kiếm được 4 - 5 triệu đồng. Số tiền này một phần dùng cho chi phí sinh hoạt gia đình, phần còn lại, người dân đầu tư nuôi cá lồng.
Anh Dũng (35 tuổi, quê An Giang) cho biết: “Nghề này cũng bấp bênh lắm, ngày thường còn làm ăn được chứ mùa nắng nước cạn, mùa mưa gió bão không đánh được thì chỉ có đói. Miếng cơm manh áo gia đình chỉ trông chờ cả vào lồng cá nuôi quanh nhà, mỗi đợt thu hoạch được vài chục triệu đồng, trừ vốn ra cũng chỉ đủ chi tiêu sinh hoạt!”.
Theo lời anh Dũng, thì hầu như trước nhà nào người dân cũng đều dành vài sào nước làm lồng nuôi cá rồi về miền Tây mua cá giống cho rẻ. Nhà nào đông lao động, nhiều vốn thì nuôi cả chục lồng cá, nhà nào vốn ít thì nuôi vài lồng, như vậy cũng đủ ăn. Chị Phương (quê Vĩnh Long) cho biết, nuôi cá thì một năm bán một lần, tùy vào từng loại. Trung bình mỗi năm, nhà chị bán gần 3 tạ cá lóc nuôi với giá 40-50 đồng/kg. “Cứ đến đợt bán, thương lái tới tận nơi mua rồi chở xuống Sài Gòn. Đầu ra ổn định nên tôi và mọi yên tâm nuôi”. Thấy làm thuận lợi, nhiều người đưa thêm con cái, người thân lên đây làm ăn, lúc đầu vài hộ, đến nay đã trên 38 hộ.
Tuy nhiên, “ Thời gian qua, do ảnh hưởng dịch bệnh Covid nên thương lái cũng ít tìm đến mua. Bà con đánh bắt và thu hoạch cá lồng bè đều phải phơi khô chờ thương lái đến. Số lượng mang lên cầu bán cũng không được nhiều vì ít người qua lại”, một lão ngư làng chài tâm sự.
Những ngày mưa bão như cuối năm 2020 vừa qua, sóng dội liên tục vào những con thuyền nhà nổi, nhưng người dân làng chài vẫn quyết bám trụ để giữ những lồng cá. Ông Đạt, một cư dân cho hay cả xóm này có trên 30 lồng cá lóc, riêng ông nuôi khoảng 2 lồng, mỗi năm thu chừng 4 tấn cá. Nuôi cá lóc lồng bè trên hồ Nam Ka là kiểu nuôi “con nhà nghèo”, vì không có tiền mua thức ăn chế biến sẵn theo kiểu công nghiệp nên các hộ ở đây phải nuôi bằng cá nhỏ đánh bắt trong tự nhiên.
Mấy năm nay, để cải thiện kinh tế và bán những loại thủy hải sản tự nuôi cũng như đánh bắt được, những hộ dân ở xóm chài đã dựng lều, mang cá khô một nắng lên cầu Đắk Hil bán. Hai đầu cầu Đắk Hil có khoảng chục cái chòi tạm bán cá khô. Treo trên mép mái tôn là những con cá khô lóc xẻ dọc đã bóc hết xương, dải thịt cá ươm mỡ óng ánh. Phía dưới sạp là rổ cá khô nhỏ như cá mương, cá lìm kìm.
Giấc mơ lên bờ
Tại làng chài, mọi sinh hoạt của các gia đình gói gọn trong căn nhà bè chật hẹp, chỉ vừa chỗ ăn, ngủ, không gian giải trí hầu như không có. Lúc rảnh rỗi, người dân chèo thuyền sang các nhà bên trò chuyện tán gẫu cho đỡ buồn. Bà Loan (quê Bến Tre) cho biết: “Nhiều lúc cũng thấy buồn, nhớ cuộc sống ở dưới quê nhưng đi làm ăn phải chấp nhận chứ biết sao giờ. Nhìn cuộc sống trên bờ tấp nập mà thèm, mà thương bọn trẻ làng chài”.
Điều mà cư dân xóm chài phải chấp nhận lâu nay đó là mọi sinh hoạt như tắm rửa, vệ sinh, giặt giũ, nuôi gia súc, gia cầm... đều diễn ra trên con nước này. Họ múc nước lên và để lắng dùng sinh hoạt, ăn, uống. Vì không có hộ khẩu, không bảo đảm an toàn cho việc sử dụng điện ở dưới nước nên làng chài chưa được đầu tư điện lưới. Người dân phải dùng bình ắc quy, chạy máy nổ để sạc pin, thắp đèn, xem tivi, còn nấu nướng phải dùng củi.
Quanh năm trôi nổi trên con nước khiến nhiều em nhỏ phải bỏ học nửa chừng, phần vì trường xa, phần vì gia đình khó khăn. Một vài gia đình sợ con thất học nên đưa về quê, số khác gửi người quen cho con ra ngoài huyện học. Những đứa trẻ lên ba, bốn tuổi đã biết bơi, nước da lúc nào cũng đen sạm, tóc cháy vàng vì nắng cao nguyên.
Sau hàng chục năm bám trụ tại làng chài, bây giờ nhiều người chỉ mong được lên bờ lập nghiệp. Thế mà, giấc mơ ấy vẫn xa xôi và mờ mịt như sương sớm núi rừng Tây Nguyên. Vì sống tạm cư trên lòng hồ nên 38 hộ dân ở đây chỉ được đăng ký tạm trú dài hạn chứ chưa được cấp hộ khẩu.
Ông Hồ Văn Anh, Chủ tịch UBND xã Krông Nô cho biết: “Xã thường xuyên cử cán bộ công an xuống nắm bắt tình hình, khuyên người dân không được kích điện bắt cá. Xã cũng đã nhiều lần động viên người dân lên bờ sinh sống, vừa đảm bảo an toàn tính mạng, vừa thuận tiện cho công tác quản lý trật tự địa phương. Tuy nhiên vì cuộc sống còn nhiều khó khăn nên người dân chưa thể lên bờ! Những năm qua, UBND xã cũng tạo điều kiện cho người dân ở làng chài về việc tạm trú, cấp giấy khai sinh cho trẻ em, được tham gia các hoạt động y tế, giáo dục của địa phương. Còn về đất tái định cư cho người dân làng chài cần phải đợi chủ trương, quy hoạch của cấp có thẩm quyền”.
Chiều muộn, mặt trời phủ xuống những ráng đỏ huy hoàng. Từ trên cầu cách mặt hồ cả trăm mét, những ngôi nhà nổi trên lòng hồ đã đượm những làn khói lam bay ra lan tỏa trên mặt hồ yên ả. Phía xa xa vẫn còn bóng dáng những ngư dân bắt cá lo bữa cơm cuối ngày. Trong cuộc mưu sinh, hình như đâu đó vẫn đọng lại tiếng thở dài...