Cựu chiến binh Quàng Văn Thiềng, tiểu khu 2, thị trấn Yên Châu, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La (giữa). Ảnh: Gia HưngVề với mảnh đất Yên Châu (Sơn La) gặp cựu chiến binh Quàng Văn Thiềng, tiểu khu 2, thị trấn Yên Châu, huyện Yên Châu (Sơn La), được nghe ông kể về ký ức của những ngày tháng đầy hào hùng 50 năm về trước. Ông là một trong những thanh niên dân tộc Thái tình nguyện tham gia nhập ngũ. Năm 1972, được biên chế tại Sư đoàn 316 bộ binh.
Tháng 10/1974, đơn vị ông tiến vào miền Nam, chuẩn bị giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột (nay là TP. Buôn Ma Thuật, Đắk Lắk). Sau khi chiến dịch giành thắng lợi, tình hình an ninh trật tự tại Buôn Ma Thuột ổn định, đơn vị của ông được nhận nhiệm vụ hành quân xuống Tây Ninh, chuẩn bị cho chiến dịch Hồ Chí Minh. Nhớ lại những ngày tháng lịch sử ấy cựu chiến binh Quàng Văn Thiềng không khỏi xúc động.
"Bắt đầu chuyển xuống Tây Ninh, chúng tôi nhận lệnh cấp trên là chiến dịch Giải phóng Sài Gòn, mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh. Đơn vị chúng tôi chặn giữ không cho lính của Sư đoàn 25, Việt Nam Cộng hòa từ Tây Ninh xuống ứng cứu căn cứ Đồng Dù và ứng cứu Sài Gòn.
Cuộc chiến đấu diễn ra rất ác liệt, toàn bộ khu vực đó bị đánh bom, một số đồng đội chúng tôi hy sinh, bị thương. 3 ngày 26,27, 28/4 là ác liệt nhất. Đến ngày 30/4 sóng điện đài bị mất, đến gần 12 giờ đài lên sóng, và nghe giọng nói Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vô điều kiện…Riêng bản thân chúng tôi là những người chiến đấu trực tiếp chiến đấu rất vui sướng, mấy anh em ôm nhau khóc vì quá mừng, đồng bào miền Nam còn tặng bộ đội bánh tét…", Cựu chiến binh Quàng Văn Thiềng nói.
Cựu chiến binh Lường Văn Chựa, xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La (người thứ 2 bên phải sang). Ảnh: Gia HưngVới cựu chiến binh Lường Văn Chựa, xã Chiềng Pằn, huyện Yên Châu, từng là chiến sĩ ở binh chủng tên lửa, ký ức về quá khứ đã trở thành niềm vinh dự, tự hào suốt 47 năm qua với ông và gia đình. Năm 20 tuổi, ông đã viết đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ. Năm 1967 ông và các đồng đội của Tiểu đoàn 52, Trung đoàn tên lửa 267 tham gia chiến dịch 41 ngày đêm tại thành phố cảng Hải Phòng. Đây là đầu mối quan trọng tiếp nhận hàng viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa ủng hộ cho quân và dân ta chống Mỹ. Những chiến thắng quan trọng tại đây đã góp phần rất lớn vào việc chi viện cho chiến trường miền Nam.
"Cuối năm 1967, Mỹ mở chiến dịch 41 ngày đêm đánh phá TP.Hải Phòng. Mỹ dồn các loại máy bay đánh phá liên tục 41 ngày đêm. Chúng ta đã chiến đấu anh dũng với quyết tâm bảo vệ cảng Hải Phòng và 2 ngày chúng tôi bắn rơi 3 chiếc máy bay. Chúng tôi bảo vệ thành công TP cảng Hải Phòng, được Bác Hồ gửi tặng hoa động viên. Sau đó, đến năm 1972, đơn vị chúng tôi vào Quảng Bình, chiến đấu tại Thụ Lộc, quyết tâm bảo vệ tuyến đường 21 dọc Trường Sơn", cựu chiến binh Lường Văn Chựa cho biết.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đã có biết bao người con quê hương Yên Châu tham gia chiến đấu. Có những chiến sĩ tuy không trực tiếp tham gia chiến dịch, nhưng luôn rèn luyện và sẵn sàng tinh thần khi được nhận lệnh
Cựu chiến binh Nguyễn Đức Minh, Tiểu khu 3, Thị trấn Yên Châu, huyện Yên Châu chia sẻ: Tôi lúc bấy giờ là chiến sĩ kỹ thuật của Quân khu Tây Bắc. Việc chuẩn bị cho giải phóng miền Nam theo kế hoạch là năm 1975-1976. Chúng tôi được học tập để tăng cường lực lượng cho chiến trường miền Nam, lúc này chiến trường miền Nam bắt đầu chiến dịch lớn như chiến dịch Tây Nguyên, giải phóng Buôn Mê Thuật, giải phóng Huế.
"Ngày 26/4, chiến dịch Hồ Chí Minh tiến công theo 5 hướng vào Sài Gòn. Chúng tôi là bộ đội kỹ thuật nên cũng thường xuyên được cung cấp thông tin về chiến trường, trong lúc chúng tôi đang miệt mài rèn luyện thì được tin miền Nam giải phóng. Chúng tôi vô cùng vui sướng", cựu chiến binh Nguyễn Đức Minh cho biết.
Kỷ vật của cựu chiến binh. Ảnh: TLNhững người lính năm xưa của quê hương Yên Châu giờ đều đã hơn tuổi 70, khi gặp lại những đồng đội cũ, giữa những ngày tháng 4 lịch sử, trang ký ức ấy cứ lần lượt hiện về như mới ngày hôm qua. Những người cựu chiến binh năm đó vẫn mãi không thể nào quên giờ khắc lịch sử quan trọng, ngày 30/4 ngày đất nước thống nhất hoàn toàn.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã trôi qua nửa thế kỷ, nhưng ký ức một thời hoa lửa vẫn luôn in đậm trong trí nhớ của những cựu chiến binh đang sinh sống trên địa bàn huyện Bắc Yên.
Gặp cựu chiến binh trực tiếp tham gia chiến trường miền Nam- ông Bùi Đăng Bình, hiện sinh sống tiểu khu 3, thị trấn Bắc Yên. Đã hơn 70 tuổi, nhưng những chặng đường chiến đấu của quân và dân ta trải qua để tiến tới giành độc lập, non sông thu về một mối luôn khắc sâu trong tâm trí ông.
Ông Bình nhớ lại: Tôi sinh ra ở huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình, nhưng từ năm 9 tuổi đã theo chú ruột vào sống ở Hà Tĩnh. Lúc đó, Mỹ đang ném bom phá hoại miền Bắc để cắt đứt đường chi viện cho miền Nam. Năm 17 tuổi, tôi xung phong đi khám tuyển nghĩa vụ 3 lần nhưng đều bị từ chối. Đến năm 1974, khi có lệnh tổng động viên, tôi cùng hai người bạn viết đơn tình nguyện nhập ngũ và được chính thức lên đường bảo vệ Tổ quốc.
CCB Bùi Đăng Bình chia sẻ bức ảnh kỷ niệm về tình đồng đội.Ảnh TLNgày 11/12/1974, ông Bình nhập ngũ và được huấn luyện tại Đoàn 22, Quân khu 4 ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Đến đầu tháng 2/1975, ông được biên chế vào Đại đội 6, Tiểu đoàn 8, Trung đoàn 266, Sư đoàn 341, Quân đoàn 4, đóng quân tại huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Theo ông kể: Trung tuần tháng 2/1975, đơn vị ông Bình lên đường vào chiến trường Tây Nguyên qua con đường mòn Hồ Chí Minh. Dọc các tuyến đường, đâu đâu cũng thấy những người lính trẻ, dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong, tất cả đều có một khát vọng chung là “Nam tiến”.
Đến ngày 7/4/1975, không khí trong cánh rừng Túc Trưng, huyện Định Quán, tỉnh Long Khánh (nay là tỉnh Đồng Nai) trở nên căng thẳng, mọi người thức suốt đêm để chuẩn bị cho trận chiến lớn sắp tới. Trước giờ ra trận, bữa cơm tối hôm ấy rất đầy đủ với rau rừng, thịt hộp, và cả cá mòi từ sông La Ngà. Mỗi người tranh thủ chỉnh sửa súng ống, viết thư cho gia đình và những dòng nhật ký.
Ông Bình vẫn nhớ lá thư gửi về từ chiến trường, chỉ vỏn vẹn vài dòng: “Mẹ ơi, con vẫn khỏe. Mẹ giữ gìn sức khỏe, ngày chiến thắng con sẽ về”. Đó là sợi dây kết nối giữa hậu phương và tiền tuyến, tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho các chiến sĩ để họ vững vàng trên con đường chiến đấu.
Đêm 8/4/1975, đơn vị ông Bình vượt sông La Ngà, huyện Định Quán, áp sát thị xã Xuân Lộc, tỉnh Long Khánh, một chốt chặn quan trọng trong tuyến phòng thủ cuối cùng bảo vệ cửa ngõ Sài Gòn. Đến sáng ngày 9/4/1975, hàng loạt bộc phá phá tan hàng rào thép gai, mở đường cho bộ binh tiến quân. Trận đánh kéo dài nhiều ngày, ta và địch giành giật từng con phố, từng ụ đất.
Khi quân ta chiếm được Dinh Tỉnh trưởng trưa 11/4/1975, chiến sự vẫn chưa kết thúc. Địch cố thủ quyết liệt, điều thêm viện binh, xe tăng, pháo binh yểm trợ. Máy bay địch quần thảo, trút bom xuống trận địa, nhưng quân ta vẫn kiên cường bám trụ.
Ngày 21/4/1975, trước sức ép của ta, địch rút chạy, quân ta giải phóng hoàn toàn tỉnh Long Khánh. Chiến thắng Xuân Lộc như cánh cửa mở toang dẫn thẳng vào Sài Gòn. Cả chiến trường vỡ òa trong niềm vui sướng. Những đoàn quân tiếp tục hành quân thần tốc.
Trong chiến dịch Hồ Chí Minh từ ngày 26-30/4/1975, đơn vị ông Bình tiến đánh Trảng Bom, Hưng Nghĩa, sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình, rồi thẳng tiến vào Sài Gòn, góp phần làm nên chiến thắng lịch sử 30/4/1975. Xa lộ Biên Hòa ngập tràn xe cộ, vũ khí của quân ngụy bỏ lại. Mỗi bước chân tiến vào thành phố là một bước đi giữa lịch sử.
5 giờ sáng ngày 1/5/1975, đơn vị ông tiến vào ga Bình Triệu. Dù trời còn tối nhưng nhân dân đã đổ ra đường vẫy cờ, reo hò. Một người mẹ Nam Bộ chạy đến, ôm chầm lấy ông Bình, nước mắt lăn dài trên má: “Các con đã về rồi...!”. Những giọt nước mắt vui mừng, những cái ôm thật chặt giữa người lính và Nhân dân khiến con đường từ Bình Lợi đến Dinh Độc Lập dù chỉ dài 5 km chật ních.
Cựu chiến binh Bùi Đăng Bình (người thứ 3 từ trái qua) chụp ảnh cùng đồng đội. Ảnh TLChiến thắng đến, niềm vui ấy không chỉ lan tỏa trong những ngày mừng chiến thắng 30/4, mà còn theo ông suốt cả cuộc đời. Đến giờ, ông vẫn luôn khắc ghi những tháng ngày chiến đấu ác liệt, tình đồng chí, đồng đội trở thành điểm tựa vững chắc nhất đối với người lính; không thể quên những đêm hành quân xuyên qua rừng sâu, những trận chiến khốc liệt và cả những người đồng đội mãi mãi nằm lại trên chiến trường.
Tháng 2 năm 1981, ông bắt đầu hành trình từ quê hương Thái Bình lên Bắc Yên, Sơn La để phát triển vùng kinh tế mới. Từ một người lính trở về với cuộc sống bình thường, ông dành hết sức mình cho công việc sản xuất, phát triển kinh tế. Ông tham gia vào các phong trào của địa phương, giúp đỡ bà con trồng trọt, chăn nuôi và hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp.
Giờ đây, dù tuổi đã cao, nhưng ông Bình vẫn tích cực tham gia các hoạt động của Hội Cựu chiến binh; truyền dạy cho con cháu những câu chuyện lịch sử, những bài học về lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm với quê hương.
50 năm trôi qua, những ngày tháng chiến đấu gian khổ, đầy tự hào của những người lính tham gia chiến trường miền Nam năm xưa mãi là trang sử hào hùng để các thế hệ con cháu khắc ghi, học tập, phát huy tinh thần phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong xây dựng quê hương đất nước.