Những năm qua, dù được sự hỗ trợ của Nhà nước và toàn xã hội, nhưng vùng đồng bào DTTS và miền núi luôn là “vùng trũng” trong lĩnh vực giáo dục – đào (GD&ĐT) tạo, một phần là do còn một số hạn chế trong quá trình thực thi chính sách hỗ trợ người học. Điều này đòi hỏi phải có giải pháp đột phá, từ đó thúc đẩy phát triển giáo dục ở địa bàn này.
Nhiều kết quả tích cực
Phát triển GD&ĐT được Đảng ta xác định là quốc sách hàng đầu, đồng thời là cơ sở quan trọng để thực hiện chính sách “Bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa các dân tộc”. Quán triệt chủ trương của Đảng, những năm qua, Quốc hội, Chính phủ đã ban hành rất nhiều chính sách trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS và miền núi; các Bộ, ngành, địa phương cũng đã ban hành hệ thống văn bản khá đồng bộ để triển khai, thực hiện.
Theo báo cáo của Bộ GD&ĐT với Đoàn giám sát Hội đồng Dân tộc của Quốc hội về việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) liên quan đến công tác dân tộc (CTDT) ngày 15/3/2023, chỉ tính giai đoạn 2016 – 2021, Bộ đã chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan xây dựng, sửa đổi, bổ sung, trình Chính phủ ban hành 12 Nghị định và 25 Thông tư, Thông tư liên tịch về các chính sách phát triển GD&ĐT có liên quan đến CTDT.
Cũng trong giai đoạn này, Bộ đã ban hành 06 Thông tư, 01 Quyết định theo thẩm quyền, hoàn thiện cơ sở pháp lý nhằm củng cố, phát triển hệ thống, quy mô các trường PTDTNT, PTDTBT, dự bị đại học, qua đó góp phần nâng cao chất lượng nguồn đào tạo nhân lực chất lượng cao cho vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Các VBQPPL đã kịp thời hướng dẫn thực hiện các chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục ở vùng đồng bào DTTS và miền núi. Nhờ đó, công tác giáo dục ở địa bàn này tiếp tục được phát triển cả quy mô, mạng lưới trường lớp và chất lượng giáo dục, đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các DTTS.
Số liệu được Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đưa ra tại Hội thảo “Tham vấn tình hình thực hiện chính sách GD&ĐT vùng đồng bào DTTS và miền núi” diễn ra ngày 15/9/2023 cho thấy, so với năm học 2019 – 2020, năm học 2021 - 2022 số lượng học sinh (HS) DTTS bậc phổ thông đều tăng ở các cấp học. Trong đó, cấp tiểu học có 1.628.141 HS (tăng 85.386 HS), cấp THCS có 999.780 HS (tăng 83.577 HS), cấp THPT có 348.776 HS (tăng 24.466 HS).
Cùng với đó, cả nước hiện có 318 trường PTDTNT, với quy mô 101.918 HS; 1.139 trường PTDTBT, với quy mô 245.080 HS; 2.176 trường phổ thông có HS được hưởng chế độ bán trú với quy mô 213.199 học sinh; 04 trường dự bị đại học và Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc có dạy học hệ dự bị đại học, với quy mô khoảng 3.000 học sinh dự bị/năm.
Với quy mô trường lớp được mở rộng cùng với các chính sách hỗ trợ học tập thiết thực đã bảo đảm trẻ em DTTS được đến trường, hoàn thành cấp học; chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào DTTS và miền núi từng bước được nâng lên.
Chính sách chưa đạt mục tiêu
Mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, nhưng theo Ủy ban Dân tộc (UBDT), vùng đồng bào DTTS và miền núi vẫn đang là “vùng trũng” về GD&ĐT. Điều này được minh chứng ở khoảng cách về tỷ lệ đi học đúng độ tuổi, tỷ lệ bỏ học, chất lượng giáo dục,… ở vùng đồng bào DTTS và miền núi so với mặt bằng chung của cả nước. Đối chiếu với các chính sách hỗ trợ người học hiện hành, UBDT đánh giá, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên hiệu quả tác động của các chính sách chưa đạt mục tiêu đề ra.
Đơn cử, về mục tiêu bảo đảm tỷ lệ đi học đúng độ tuổi ở các cấp học vẫn còn thấp. Ở cấp tiểu học, cứ 100 em trong độ tuổi đi học cấp tiểu học thì có khoảng 2 em không được đến trường. Tỷ lệ đi học đúng tuổi cấp THCS của trẻ em DTTS là 81,6%. Một số DTTS có tỷ lệ trẻ em không đi học THCS cao hơn khoảng 3 lần so với mức chung của 53 DTTS (tỷ lệ chung của 53 DTTS là 13,3% thì Brâu là 45,2%, Xtiêng là 39,6%, Gia Rai là 36,3%...).
Đồng thời, tình trạng học sinh DTTS trong độ tuổi học THPT không đến trường là phổ biến ở hầu hết các dân tộc, với 27/53 DTTS có tỷ lệ học sinh trong độ tuổi không đi học THPT chiếm trên 50%. Tỷ lệ người DTTS có trình độ từ THPT trở lên chiếm 20,2% tổng số người DTTS từ 15 tuổi trở lên, thấp hơn tỷ lệ này của toàn quốc là 16,3 điểm phần trăm.
Đặc biệt, tỷ lệ biết đọc, biết viết chữ phổ thông còn khá thấp ở nhiều DTTS; trong đó thấp nhất là dân tộc Mảng (46,2%), La Hủ (46,9%), Lự (49,7%), Mông (54,3%). Vì vậy, UBDT cho rằng, cần có chính sách hỗ trợ cho các em đi học từ mầm non để các em có thể biết nói thông thạo tiếng Việt trước khi vào lớp 1.
Trong tờ trình gửi Thủ tướng Chính phủ về Dự thảo Đề án “Hỗ trợ giáo dục học tập theo vòng đời cho trẻ em, học sinh, sinh viên DTTS tại vùng DTTS và miền núi”, UBDT khẳng định, những năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ phát triển giáo dục vùng đồng bào DTTS và miền núi, trong đó chính sách hỗ trợ người học được ưu tiên đặc biệt. Tuy nhiên, trong quá trình thực thi, các chính sách phát triển GD&ĐT cho vùng đồng bào DTTS và miền núi cũng bộc lộ nhiều hạn chế, bất cập.
Ngày 30/7/2021, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 1373/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030”. Trong đó, Thủ tướng Chính phủ giao UBDT tham mưu, đề xuất Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành các chương trình, dự án hỗ trợ giáo dục, tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho trẻ em, người học vùng đồng bào DTTS và miền núi được tham gia học tập.
Thực hiện nhiệm vụ được giao, UBDT đã đề xuất xây dựng và hoàn thiện Dự thảo Đề án “Hỗ trợ giáo dục học tập theo vòng đời cho trẻ em, học sinh, sinh viên người DTTS tại vùng DTTS và miền núi”. Trong Dự thảo Đề án, UBDT đã nhận diện và làm rõ nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế trong việc thực thi chính sách phát triển GD&ĐT ở vùng đồng bào DTTS và miền núi, nhất là chính sách hỗ trợ người học, từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể để tháo gỡ.
Với các chính sách hỗ trợ học tập của Nhà nước, chất lượng giáo dục ở vùng đồng bào DTTS và miền núi đã chuyển biến tích cực. Theo thống kê, trung bình học sinh trường PTDTNT có tỷ lệ học lực giỏi, khá là trên 60%; tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS của các trường PTDTNT hàng năm trên 97%. Trong số 6.000 học sinh các trường PTDTNT tốt nghiệp THPT hàng năm, có trên 50% học sinh thi đỗ thẳng vào đại học, cao đẳng; 13% vào cử tuyển hoặc vào trường dự bị đại học; khoảng 30% vào trung cấp chuyên nghiệp, dạy nghề và về địa phương tham gia công tác, lao động sản xuất.
Báo Dân tộc và Phát triển sẽ phản ánh nội dung này trong bài viết tiếp theo.