Dự án 6 đóng vai trò như “chìa khóa” để vừa giữ bản sắc, vừa tạo sinh kế cho đồng bào DTTSTiếng chiêng và “linh hồn” của người Mường
Lên 7 tuổi, cậu bé Phạm Vũ Vượng ở thôn Thuận Hòa, xã Thạch Lập, tỉnh Thanh Hóa đã biết cầm dùi gõ vào mặt chiêng, say sưa lắng nghe âm thanh ngân vang trong lễ hội bản làng. Sáu mươi năm sau, cậu bé Vượng ngày nào đã trở thành Nghệ nhân Ưu tú (NNƯT), vẫn vẹn nguyên tình yêu nồng nàn với thanh âm của núi rừng. Với ông, chiêng không chỉ là nhạc cụ, mà còn là “tiếng nói” của người Mường, gói trọn hồn cốt dân tộc.
Trong 17 năm làm Chủ nhiệm Câu lạc bộ (CLB) văn hóa dân gian dân tộc Mường huyện Ngọc Lặc cũ, ông cùng cộng sự miệt mài đi khắp bản làng, sưu tầm 20 bài hát ru, phục dựng hát phường chúc, hát sắc bùa - những làn điệu từng đứng trước nguy cơ thất truyền. Từ 33 hội viên ban đầu, CLB từng bước phát triển lên tới 72 người, có đủ kế toán, thủ quỹ và đội sưu tầm. Ông Vượng nhớ lại: “Ngày xưa, bản nào cũng có cồng chiêng. Có trẻ em chào đời thì đánh chiêng mừng, có người qua đời thì đánh chiêng tiễn. Nhưng rồi dần dà, người ta lãng quên... Tôi không đành lòng nhìn hồn dân tộc phai nhạt”.
Trong căn nhà nhỏ ở thôn Thuận Hòa, ông treo kín những chiếc chiêng đã dày công sưu tầm, hiện có 30 chiếc, kèm 2 trống và 3 bộ dàn chiêng. Không chỉ trẻ con trong làng, mà nhiều người từ xã khác, thậm chí không phải người Mường cũng tìm đến ông học đánh chiêng. Bà Phạm Thị Hòa, xã Ngọc Lặc, dân tộc Kinh cũng say mê tiếng chiêng, nên tìm đến học. Hiện nay, gia đình bà đã sở hữu 18 chiếc chiêng.
Trình diễn Pồn Pôông - cồng chiêng cũng là Di sản văn hoá phi vật thể tiêu biểu còn được lưu giữ tại vùng núi Thanh Hóa (ảnh Quỳnh Trâm)Nhờ những người như ông Vượng, tiếng chiêng không chỉ ngân vang trong lễ hội truyền thống, mà còn trở thành “điểm nhấn” trong các chương trình du lịch cộng đồng, nơi du khách được trải nghiệm đánh chiêng, khoác lên mình trang phục Mường, hòa nhịp cùng đời sống người dân địa phương.
Cũng trên vùng đất xứ Mường, NNƯT Nguyễn Đình Đương, xã Ngọc Liên, huyện Ngọc Lặc cũ năm nay 83 tuổi vẫn minh mẫn, giọng khỏe, có thể “mo” suốt đêm khi diễn xướng trong nghi lễ.
Từ năm 12 tuổi, ông đã theo học mo từ các bậc cao niên, không qua sách vở mà bằng trí nhớ và truyền khẩu. Năm 16 tuổi, cha mất, ông Đương trở thành người duy nhất tiếp nối vốn mo gia truyền. Hơn 70 năm gắn bó, ông đã truyền dạy cho 22 người biết mo. Ông Đương giải thích: “Mo Mường là loại hình diễn xướng dân gian gắn với các nghi lễ vòng đời, đặc biệt là tang lễ, kể lại hành trình một đời người từ khi sinh ra cho đến lúc trở về với tổ tiên. Nếu lớp trẻ không học, mo Mường sẽ mất. Mất mo là mất đi một phần hồn vía của người Mường”.
Nhờ sự hỗ trợ từ Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn I (2021-2025), với khoản kinh phí hơn 11 triệu đồng cùng 2 chiếc mâm đồng quý, cấp trong năm 2024, ông Đương và nhiều nghệ nhân khác có thêm động lực để tiếp tục cống hiến. Đây không chỉ là sự ghi nhận, mà còn là cách Nhà nước khuyến khích nghệ nhân truyền dạy, gìn giữ để di sản vừa được bảo tồn, vừa trở thành sản phẩm văn hóa - du lịch đặc sắc.
Biểu diễn cồng chiêng Mường trong Lễ hội Lam Kinh (ảnh Quỳnh Trâm)Dự án 6 - “đòn bẩy” đưa văn hóa vào du lịch
Thanh Hóa hiện có hàng trăm di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào DTTS, từ cồng chiêng, mo Mường, khặp Thái, khèn Mông đến nghề dệt thổ cẩm, làm trang sức bạc... Những giá trị này, nếu được khai thác hợp lý sẽ trở thành sản phẩm du lịch độc đáo.
Theo Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa, đến hết năm 2024, đã có 21 nghệ nhân DTTS được hỗ trợ kinh phí trong giai đoạn 2021-2025. Nhiệm vụ 4 của Dự án 6 thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia 1719 tập trung hỗ trợ Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú, giúp họ tiếp tục sáng tạo, trao truyền di sản, đồng thời khuyến khích sự tham gia của cộng đồng.
Nghệ nhân Ưu tú Phạm Vũ Vượng chỉ dạy cho bà Phạm Thị Hòa đánh cồng chiêng (Ảnh Kiều Huyền)Không chỉ dừng lại ở việc bảo tồn, Dự án 6 còn hướng đến việc “kích hoạt” di sản, biến các lễ hội, trình diễn, làng nghề thành sản phẩm du lịch trải nghiệm. Ở Ngọc Lặc, tiếng chiêng đã được đưa vào chương trình đón khách; tại Lang Chánh, nghề dệt thổ cẩm gắn với tour khám phá bản Mường; ở Bá Thước, Lễ hội Pồn Pôông trở thành điểm nhấn của du lịch cộng đồng Pù Luông.
Tuy đạt nhiều kết quả tích cực, công tác bảo tồn văn hóa vẫn đứng trước không ít thách thức: nghệ nhân ngày càng cao tuổi, thu nhập bấp bênh; lớp trẻ mải mưu sinh, ít mặn mà học nghề; một số CLB văn hóa dân gian đã mất tư cách pháp nhân sau sáp nhập hành chính, như CLB văn hóa dân gian dân tộc Mường huyện Ngọc Lặc cũ.
Để di sản không “ngủ quên” trong tủ kính bảo tàng, cần tạo cho nó môi trường sống, đó là cộng đồng và sản phẩm du lịch. Khi tiếng chiêng vang lên trong lễ hội chào đón du khách, khi mo Mường được diễn giải bằng nhiều thứ tiếng, khi thổ cẩm trở thành món quà lưu niệm… di sản mới thật sự “sống khỏe, sống bền”.
Tên huyện không còn nhưng cộng đồng Mường vẫn còn đó. Bảo tồn văn hóa vừa là trách nhiệm, vừa là tình yêu, là sợi dây níu giữ hồn cốt dân tộc”, ông Vượng khẳng định.