Truyền dạy, hướng dẫn kỹ năng dệt thổ cẩm cho phụ nữ dân tộc Thái tại thôn Lặn Ngoài, xã Lũng Niêm. Ảnh T. LinhGiữ hồn núi rừng trong tiếng chiêng, lời khèn
Ở vùng đồng bào Mường Ngọc Lặc, nghệ nhân Phạm Vũ Vượng được bà con trìu mến nhắc đến mỗi khi tiếng chiêng ngân vang. Hơn nửa thế kỷ gắn bó với bộ chiêng cổ của dòng họ, ông coi đó như báu vật tinh thần. Trong những ngày hội bản, tiếng chiêng của ông vang vọng núi rừng, như gọi về hồn thiêng đất Mường.
Không chỉ biểu diễn, ông Vượng còn mở lớp dạy thanh niên trong bản cách gõ chiêng, cách thể hiện từng nhịp Mo gắn với phong tục cưới hỏi, lễ hội. Ông tâm sự: “Mo Mường là trí nhớ của cả dân tộc. Nếu để mai một, coi như mất gốc.” Ở tuổi xế chiều, ông vẫn đều đặn tham gia hoạt động văn hóa, vừa trình diễn vừa truyền dạy, là “người giữ lửa” cho câu lạc bộ văn hóa dân gian địa phương, đồng thời gieo mầm tình yêu văn hóa cho thế hệ trẻ.
Xa hơn về phía Tây, nơi núi rừng Mường Lát, nghệ nhân Hơ Pó Ma, người Mông cả đời gắn bó với cây khèn bè. Từ nhỏ theo cha lên nương, vừa đi vừa nghe khèn, đến nay đã hơn 40 năm, tiếng khèn trở thành hơi thở cuộc đời ông. Trong các lễ hội, khi khèn của ông cất lên, trai gái Mông xúng xính váy áo, rộn ràng hòa nhịp múa.
Ông Ma bảo: “Khèn không chỉ để chơi, mà còn để nói hộ lòng mình. Tôi muốn dạy lũ trẻ thổi khèn, để chúng hiểu cha ông gửi gắm tình yêu, nỗi buồn vui qua từng thanh âm thế nào.” Với ông, khèn là sợi dây nối kết cộng đồng, là cách để người Mông khẳng định bản sắc trong đời sống hiện đại.
Nếu không có những con người bền bỉ như ông Vượng, ông Ma, hẳn tiếng chiêng, tiếng khèn đã bị lấn át bởi nhịp sống đô thị và sự xô bồ của hội nhập.
Nghệ nhân Phạm Vũ Vượng, tích cực tham gia các hoạt động truyền dạy cồng chiêng. (ảnh T. Linh)Gửi sắc màu thổ cẩm cho mai sau
Không chỉ âm nhạc, đồng bào miền núi Thanh Hóa còn gửi hồn cốt dân tộc qua từng sợi thổ cẩm. Ở xã Lũng Niêm, huyện Bá Thước cũ, nay thuộc vùng Pù Luông, chị Hà Thị Dung, một phụ nữ trẻ đầy tâm huyết đã chọn con đường gắn bó với nghề dệt cổ truyền.
Ngoài chế độ đãi ngộ theo Nghị định 109/2015/NĐ-CP dành cho Nghệ nhân Nhân dân, Nghệ nhân Ưu tú có thu nhập thấp, hiện chưa có chính sách hỗ trợ rộng rãi cho nghệ nhân nói chung. Các chính sách hiện hành cũng chưa tác động nhiều đến những người trực tiếp nắm giữ tinh hoa di sản. Vì vậy, rất cần có cơ chế đảm bảo đời sống, chăm sóc sức khỏe, đồng thời tạo điều kiện để họ phát huy tri thức, góp phần phát triển văn hóa - xã hội.
Chị Dung liên kết với hàng chục phụ nữ trong vùng để duy trì toàn bộ công đoạn: trồng bông, se sợi, nhuộm thảo mộc, dệt vải. Không dừng ở sản xuất nhỏ lẻ, chị thành lập doanh nghiệp Thăng Dung, tạo việc làm cho gần chục lao động với thu nhập khoảng 6 triệu đồng/tháng.
Điều đáng quý là chị không chỉ bảo tồn trang phục truyền thống của người Thái, Mường mà còn phục chế váy áo dân tộc Thổ, Dao, làm đồ sính lễ, vật phẩm nghi lễ. Chị Dung chia sẻ: “Thổ cẩm gặp cạnh tranh gay gắt, nhưng xu hướng tiêu dùng hiện nay ưa chuộng chất liệu tự nhiên, an toàn, thân thiện môi trường. Muốn giữ nghề, phải vừa truyền thống vừa hợp thị hiếu hiện đại.”
Nhờ cách làm bài bản, sản phẩm thổ cẩm Thanh Hóa đã hiện diện ở nhiều điểm du lịch như Pù Luông, bản Lác, bản Năng Cát. Du khách thích thú mua khăn, túi, váy thổ cẩm làm kỷ niệm. Đằng sau mỗi sản phẩm là mồ hôi, công sức và niềm đam mê của người thợ, minh chứng cho sức sống bền bỉ của văn hóa bản địa giữa vòng xoáy hội nhập.
Không ít đoàn khách quốc tế đã tìm đến tận bản làng để tận mắt xem quy trình dệt, từ khâu kéo sợi đến dệt vải. Những trải nghiệm ấy không chỉ nâng cao giá trị sản phẩm, mà còn quảng bá hình ảnh văn hóa xứ Thanh ra thế giới.
Hơn 40 năm qua, anh Hơ Pó Ma ở bản Cơm, xã Pù Nhi, vẫn lưu giữ văn hóa khèn Mông. (ảnh: T. Tùng)Kho báu sống giữa đại ngàn
Hiện, Thanh Hóa có hàng trăm nghệ nhân dân gian ở miền núi, trong đó nhiều người đã được phong tặng danh hiệu Nghệ nhân Ưu tú. Họ là “cầu nối” đưa những giá trị như hát Xường, Mo Mường, khèn Mông, thổ cẩm Thái… đến với thế hệ mai sau. Một số trường học, trung tâm văn hóa đã mời nghệ nhân trực tiếp giảng dạy, giúp học sinh tiếp cận di sản một cách sinh động và gần gũi.
Điểm chung của các nghệ nhân vùng cao là sự lặng lẽ, kiên trì và niềm đam mê hiếm có. Họ không giàu có, nhiều khi sống trong điều kiện khó khăn, nhưng lại giàu lòng tự trọng văn hóa, kiên định gìn giữ những giá trị phi vật thể của cha ông.
Trong bối cảnh hội nhập, khi đời sống ngày càng hiện đại, nguy cơ mai một giá trị truyền thống là rất lớn. Nhưng từ mái nhà sàn khói bếp, từ góc bản xa xôi, tiếng khèn, tiếng chiêng, lời hát ru, tấm thổ cẩm vẫn sáng rực nhờ tâm huyết của những con người bình dị.
Họ chính là những “kho báu sống” không chỉ của xứ Thanh mà của cả dân tộc. Và chỉ khi cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ, cùng đồng hành, trân trọng và học hỏi, những kho báu ấy mới được tiếp nối, để văn hóa miền núi Thanh Hóa tiếp tục ngân vang, rực rỡ giữa dòng chảy thời gian.