Từ chủ trương của Đảng
Chủ trương, đường lối của Đảng về công tác dân tộc nói chung và về phát triển giáo dục vùng DTTS và miền núi nói riêng từ thời kỳ đổi mới đến nay được thể hiện rõ qua văn kiện các kỳ Đại hội và các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề của Đảng; mang tính toàn diện, đồng thời được sửa đổi, bổ sung cụ thể qua từng nhiệm kỳ, từng giai đoạn, phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thống nhất xuyên suốt qua các thời kỳ: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc. Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc; quan tâm bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất” (trích Tài liệu nghiên cứu các nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX).
Trải qua mỗi kỳ Đại hội, trên cơ sở những thành tựu lý luận và thực tiễn đã đạt được, các văn kiện của Đảng về giáo dục và đào tạo ngày càng chú trọng hơn tới tính vùng miền trong đề xuất chủ trương, bám sát thực tiễn phát triển giáo dục nhằm đề ra các quyết sách phù hợp, bảo đảm hiệu quả, khả thi trong quá trình triển khai.
Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã nêu: “Có chính sách ưu tiên đào tạo cán bộ cho cơ sở. Ban hành các chính sách khuyến khích cán bộ công tác ở vùng cao, vùng sâu, cán bộ miền xuôi lên công tác ở miền núi”. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng (2006) đã nhấn mạnh: “Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, trí thức người DTTS. Cán bộ công tác ở vùng DTTS và miền núi phải gần gũi, hiểu phong tục tập quán, tiếng nói của đồng bào dân tộc, làm tốt công tác dân vận. Chống các biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc”.
Đặc biệt là sự ra đời của Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế thêm một lần nữa khẳng định và nhấn mạnh tới việc cần thiết phải quan tâm đầu tư, phát triển hơn nữa chất lượng giáo dục vùng đồng bào DTTS và miền núi "Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng DTTS, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa và các đối tượng chính sách...".
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng thêm một bước cụ thể hoá sâu sắc hơn: “Đảm bảo các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển". Đối với phát triển giáo dục vùng DTTS và miền núi, Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: “Quan tâm thích đáng đến phát triển giáo dục ở miền núi, vùng cao, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
Cụ thể hóa chủ trương của Đảng, các bộ, ngành Trung ương đã tham mưu Chính phủ ban hành nhiều văn bản về công tác giáo dục, đào tạo dành cho đồng bào DTTS. Đồng thời, thường xuyên rà soát, điều chỉnh, sửa đổi các chính sách cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Cụ thể như: chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vùng DTTS và miền núi; chính sách đối với học sinh, sinh viên; chính sách đầu tư, hỗ trợ về cơ sở vật chất; chính sách phát triển hệ thống trường chuyên biệt; chính sách cử tuyển và phát triển nguồn nhân lực; chính sách về dạy tiếng, chữ DTTS; chính sách về công tác phổ cập giáo dục, xóa mù chữ và xây dựng xã hội học tập…
Chính sách về giáo dục tiếp tục được cụ thể hóa trong Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: Từ năm 2021 đến năm 2025. Mục tiêu tổng quát của Chương trình: Khai thác tiềm năng, lợi thế của các địa phương trong vùng đồng bào DTTS và miền núi; đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh phát triển kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội; giảm nghèo nhanh, bền vững, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống, thu nhập bình quân của vùng so với bình quân chung của cả nước; giảm dần số xã, thôn ĐBKK; quy hoạch, sắp xếp, bố trí ổn định dân cư, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ, liên vùng, kết nối với các vùng phát triển; phát triển toàn diện giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa; cải thiện rõ rệt đời sống của Nhân dân; nâng cao số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động là người DTTS; giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các DTTS đi đôi với xóa bỏ phong tục tập quán lạc hậu; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo an ninh biên giới quốc gia; củng cố, tăng cường khối Đại đoàn kết các dân tộc, nâng cao niềm tin của đồng bào các dân tộc đối với Đảng và Nhà nước.
Tập trung ưu tiên nguồn lực trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng bảo đảm đến năm 2025 có 100% số xã có đường ôtô đến trung tâm được rải nhựa hoặc bêtông hóa; 70% thôn có đường ôtô đến trung tâm được cứng hóa; 100% số trường lớp và trạm y tế được xây dựng kiên cố...
Đến kết quả thực tiễn
Từ sự quan tâm, đầu tư của Đảng, Nhà nước với hệ thống chính sách đặc thù, cơ sở vật chất, mạng lưới, quy mô trường lớp phục vụ cho sự nghiệp phát triển giáo dục vùng DTTS và miền núi đã có những bước phát triển đáng kể. Mạng lưới trường lớp phát triển rộng khắp từ mầm non đến đại học. Đặc biệt, quy mô mạng lưới và chất lượng giáo dục trong các trường chuyên biệt được nâng lên, đáp ứng nhu cầu học tập của con em đồng bào các dân tộc thiểu số.
So với năm học 2019-2020, năm học 2021-2022 số lượng học sinh DTTS bậc phổ thông đều tăng ở các cấp học. Cụ thể, học sinh tiểu học là 1.628.141 (17,67%), tăng 85.386; học sinh THCS là 999.780 (16,86%), tăng 83.577; học sinh THPT là 348.776 (12,53%), tăng 24.466.
Toàn quốc hiện có 318 trường Phổ thông dân tộc nội trú, với quy mô 101.918 học sinh; 1.139 trường Phổ thông Dân tộc bán trú với quy mô 245.080 học sinh; 2.176 trường phổ thông có học sinh được hưởng chế độ bán trú với quy mô 213.199 học sinh; 4 trường dự bị đại học và Trường Phổ thông Vùng cao Việt Bắc có dạy học hệ dự bị đại học, với quy mô khoảng 3.000 học sinh dự bị/năm.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ cán bộ người DTTS cũng được các cấp ngành, địa phương quan tâm. Theo số liệu Báo cáo số 855/BC-UBDT, ngày 3/6/2022, của Ủy ban Dân tộc, về “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị định số 05/2011/NĐ-CP, ngày 14/1/2011 của Chính phủ về công tác dân tộc”, tính đến năm 2021, số lượng cán bộ, công chức, viên chức người DTTS của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ là 3.952.225 người. Trong đó, một số bộ, ngành quan tâm bố trí, sử dụng cán bộ, công chức người DTTS trên 5% tổng số biên chế, số lượng người được giao, như Ủy ban Dân tộc (25,4%), Bộ Tư pháp (7,2%), Bộ Quốc phòng (6,69%), Bộ Kế hoạch và Đầu tư (5,45%), Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (5,64%),...
Theo Báo cáo số 732/BC-UBDT, ngày 10/6/2021, của Ủy ban Dân tộc, về “Tổng kết chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020”, có 50.696 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ; 222.229 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước; 10.516 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về tin học. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ người DTTS ngày càng được trẻ hóa, có trình độ chuyên môn, đa dạng về thành phần dân tộc.
Tại các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, việc thực hiện đã đạt được mục tiêu tỷ lệ đề ra theo Quyết định số 402/QĐ-TTg, ngày 14/3/2016, của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt Đề án “Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS trong thời kỳ mới”; đặc biệt, một số tỉnh có tỷ lệ người DTTS chiếm từ 10% đến trên 70% tổng dân số của tỉnh đã thực hiện theo đúng hoặc vượt mức tỷ lệ cán bộ, công chức, viên chức người DTTS chiếm từ 5%, 10%, 15%, 20% tổng số biên chế được giao.
Có được kết quả trên nhờ các chính sách phát triển giáo dục, đào tạo vùng DTTS và miền núi của Đảng, Nhà nước được các bộ ngành, địa phương thực hiện có hiệu quả. Qua đó, giúp giáo dục ở vùng đồng bào DTTS và miền núi có những bước phát triển nhanh, bền vững.
Tuy nhiên, để phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội gắn với nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo; cần tiếp tục hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và THCS; đầu tư, phát triển hệ thống các trường dân tộc nội trú, bán trú và các trường dự bị đại học. Hỗ trợ về ăn, ở cho học sinh, sinh viên các vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức và chính sách cử tuyển đối với con em đồng bào các DTTS, nhất là ở các khu vực đặc biệt khó khăn. Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm và hỗ trợ khởi nghiệp đối với thanh niên các dân tộc sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng và dạy nghề.
Chú trọng hơn nữa công tác bồi dưỡng, phát triển đảng viên là người dân tộc thiểu số. Đẩy mạnh việc quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng, bố trí, sử dụng hợp lý cán bộ người dân tộc thiểu số trong thời kỳ mới theo quy định. Chú trọng phát hiện, quy hoạch, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và thực hiện tốt chính sách sử dụng, đãi ngộ cán bộ người DTTS.