Nhiều công trình nước sạch bỏ hoang
Theo Trung tâm Nước sạch và Vệ sinh môi trường nông thôn (NSVSMTNT) thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Phú Yên, trước năm 2010, trên địa bàn 3 huyện miền núi Sông Hinh, Sơn Hòa, Đồng Xuân có 48 công trình cấp nước sinh hoạt đã được xây dựng từ các Chương trình 134, 135 và Chương trình Mục tiêu quốc gia NSVSMTNT, với tổng kinh phí đầu tư hơn 56,8 tỷ đồng; tổng công suất mỗi ngày đêm 11.312m3 nước sinh hoạt cung cấp cho 48.332 người dân tại 9.460 hộ gia đình. Sau 13 năm xây dựng, đến nay, chỉ có 14 công trình hoạt động bền vững, 4 công trình bình thường, còn lại 11 công trình kém hiệu quả và 11 công trình không hoạt động.
Đơn cử, trên địa bàn huyện Sơn Hòa, có hàng chục công trình hoạt động không hiệu quả hoặc không hoạt động. Trong số đó, không ít công trình đã bị cỏ dại phủ dày, như 3 công trình giếng đào tại 3 thôn Tân Thành, Tân Hội, Tân Lương (xã Sơn Hội) được đầu tư xây dựng trong hai năm 2009, 2010 đã bỏ hoang. Cách đó không xa, 2 công trình xây dựng năm 2007, 2009 tại 2 thôn Ma Gú, Hòn Ông (xã Sơn Phước) cũng không hoạt động từ lâu… Tại huyện Đồng Xuân, 2 công trình xây dựng năm 2012, tại hai thôn Phú Giang, Phú Lợi (xã Đa Lộc) cũng không hoạt động được.
Tại tỉnh Bình Định, tình trạng các công trình cấp nước tự chảy tại miền núi hoạt động không hiệu quả cũng rất nhiều. Chỉ tính riêng tại huyện Vân Canh, cũng có đến 19 công trình cấp nước sinh hoạt quy mô nhỏ và vừa, phục vụ cho khoảng 9.000 người, tuy nhiên chỉ sau một thời gian ngắn đưa vào sử dụng, hầu hết các công trình đều bị xuống cấp, trong đó có 5 công trình bị hư hỏng hoàn toàn.
Để có nước phục vụ sinh hoạt cho gia đình, người dân nhiều xã trong huyện, phải tự khắc phục bằng cách mua ống nối trực tiếp vào nguồn nước, rồi kéo nước về nhà hoặc góp tiền khoan giếng dùng tập thể.
Công trình cấp nước bỏ hoang thời gian dài, hư hỏng không thể hoạt động và hoạt động cấp nước kém hiệu quả, cũng đang là thực trạng đang diễn ra ở một số huyện miền núi Quảng Ngãi như Ba Tơ, Trà Bồng, Minh Long…
Theo thống kê từ năm 2010 đến nay, trên địa bàn các huyện miền núi Quảng Ngãi, có khoảng 400 công trình nước sinh hoạt được đầu tư xây dựng, với kinh phí hàng trăm tỷ đồng. Sau khi đưa vào vận hành đã giải quyết được tình trạng thiếu nước sinh hoạt tại một số vùng đồng bào DTTS. Tuy nhiên hiện nay, chỉ có 29 công trình hoạt động ổn định, 126 công trình không hoạt động, còn lại nhiều công trình rơi vào tình trạng lúc có nước, lúc không.
Giải pháp sử dụng hiệu quả các công trình nước
Chia sẻ về vấn đề nước sinh hoạt ở địa phương, ông Bùi Tiến Dũng, Phó trưởng Ban Dân tộc tỉnh Bình Định đánh giá: Những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm đầu tư các công trình cấp nước sạch ở miền núi. Tuy nhiên, qua quá trình sử dụng trong thời gian dài, nhiều địa phương thực hiện công tác vận hành chưa nghiêm túc, chưa thực hiện quy chế vận hành giao cho từng thôn, làng nên hiệu quả sử dụng của hệ thống nước sạch không đảm bảo. Cùng đó, việc khảo sát chưa xác định cụ thể nguồn nước trên đầu nguồn nên công trình nhanh xuống cấp.
“Thời gian tới, địa phương cần quan tâm đầu tư cho công tác nước sạch. Nhưng trước khi đầu tư, cần khảo sát vùng nào có nguồn nước để cung cấp về lâu về dài. Nâng cao trách nhiệm của địa phương trong công tác bảo hành. Địa phương cũng tiến tới xây dựng mức giá thu tiền nước để bà con có ý thức bảo vệ, tiết kiệm tài nguyên nước, đồng thời có nguồn kinh phí duy tu bảo dưỡng, tránh tình trạng như thời gian bỏ hoang, hư hỏng lãng phí như thời gian vừa qua”, ông Dũng nêu quan điểm.
Đối với tỉnh Quảng Ngãi, ông Võ Quốc Hùng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cho biết: Do công tác quản lý, vận hành, các công trình nước sinh hoạt của một số địa phương trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi còn lỏng lẻo, không được đầu tư, duy tu, bảo dưỡng kịp thời khi có hư hỏng nhỏ, dẫn đến các công trình nhanh xuống cấp, không hoạt động được.
"Sắp tới, những công trình nào không có khả năng sửa chữa được, thì Sở sẽ tham mưu cấp thẩm quyền thanh lý theo quy định. Nhóm công trình nào còn có khả năng khôi phục, sửa chữa được, thì đề nghị cấp thẩm quyền bố trí kinh phí khôi phục sửa chữa đưa vào hoạt động trở lại", ông Hùng nêu giải pháp khắc phục.
Để giải quyết những bất cập của công trình cấp nước sinh hoạt, tháng 2/2023, UBND tỉnh Phú Yên đã xác lập kế hoạch đầu tư, nâng cấp công trình cấp nước sinh hoạt ở nông thôn giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030.
Theo đó, ngoài việc tập trung khôi phục các công trình trước đây, Phú Yên tiếp tục đầu tư xây dựng mới, kết hợp nâng cấp và mở rộng một số công trình ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, vùng đồng bào DTTS, khu vực thường xuyên thiếu nước sinh hoạt do hạn hán và xâm nhập mặn gây ra. Mặt khác, tỉnh Phú Yên kêu gọi đầu tư các công trình cấp nước sinh hoạt theo hình thức xã hội hóa.
Ông Lê Tấn Hổ, Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Phú Yên cho biết: Mục tiêu cụ thể đến năm 2025 phải hoàn thành việc khôi phục, duy trì và đảm bảo hiệu quả hoạt động ổn định 74 công trình cấp nước sinh hoạt đã xây dựng trước đây, với tổng dự toán khoảng trên 185 tỷ đồng để cung cấp nước sạch cho 34.403 hộ gia đình. Trong đó, sử dụng nguồn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương và tỉnh 58,3 tỷ đồng, ngân sách huyện – xã gần 6,6 tỷ đồng, người dân đóng góp gần 26 tỷ đồng và huy động các nguồn hợp pháp khác 94,2 tỷ đồng.
Tiếp đó, sẽ kêu gọi đầu tư xây dựng mới 29 công trình, với tổng dự toán gần 734 tỷ đồng, từ các nguồn vốn xã hội hóa. Đến năm 2030, Phú Yên không chỉ đảm bảo duy trì hoạt động 103 công trình đã đầu tư, nâng cấp mở rộng, mà tiếp tục kêu gọi đầu tư 11 công trình mới, với tổng dự toán 217,3 tỷ đồng để cung cấp nước sạch cho người dân.