Để con em đồng bào Ma Coong (một nhóm thuộc dân tộc Bru-Vân Kiều) không bị thất học, các thầy cô giáo tại các điểm trường đang phải nỗ lực vượt khó để mong sao con chữ sẽ làm thay đổi cuộc sống của bà con.
Xã Thượng Trạch, huyện Bố Trạch có hai trường TH, Trường TH số 1 đóng tại trung tâm xã và Trường TH số 2 đứng chân ở bản Cờ Đỏ, cách Trường TH số 1 gần 20km. Thầy Hiệu trưởng Trường TH số 2 Võ Anh Tuân cho biết: Xã Thượng Trạch gồm 10 điểm trường với 20 phòng học, trong đó chỉ có 3 phòng kiên cố, 5 phòng bán kiên cố, 11 phòng tạm bợ và 1 phòng phải mượn nhà dân. Tổng số cán bộ, giáo viên 38 người, có 3 cô giáo phụ trách công tác văn phòng. Các điểm trường đứng chân ở các bản “ba nhất”: sâu nhất, xa nhất, khó khăn nhất. Các bản nơi đây cách xa nhau cả chục cây số, nhiều bản phải cắt rừng đi bộ gần ngày đường mới đến nơi, vì thế công việc gieo chữ nơi miền biên viễn này vẫn còn nhiều khó khăn và thử thách.
Riêng bản Cờ Đỏ có 58 hộ, 237 nhân khẩu là đồng bào dân tộc Ma Coong. Điểm trường ở đây có 49 học sinh, gồm: 11 em lớp một, 11 em lớp hai, 9 em lớp ba, 9 em lớp 4 và 8 em lớp năm. Mặc dù từ trục đường chính (đường 20) vào bản chỉ khoảng 4km thế nhưng do ở đây có duy nhất con đường hiểm trở này nên bản Cờ Đỏ hầu như tách biệt hẳn với bên ngoài.
Chuyện ăn ở, sinh hoạt, cắm bản dạy học của giáo viên Trường TH số 2 Thượng Trạch khá gian nan. Thầy giáo Hoàng Đức Cường, 13 năm “cắm” các bản cho biết: “Khổ nhất là vào mùa mưa, nước lũ khe suối lên xuống bất thường gây tắc đường, học sinh nghỉ học, thầy giáo cắm bản phải xin ở lại với bà con, dân bản ăn gì, mình dùng nấy. Không sóng điện thoại để thông báo cho Ban Giám hiệu nhà trường, cho gia đình. Bởi vậy mà lãnh đạo nhà trường có sáng kiến luân chuyển thường xuyên các thầy cắm bản, từ bản xa đến bản gần,..
Phải khẳng định rằng, đây là những điểm trường khó khăn nhất và nhiều không nhất của huyện Bố Trạch. Không điện, không đường, không sóng điện thoại… trường thiếu thốn đủ bề ngoài dãy nhà xây hai tầng ra thì nhìn đâu cũng thấy thiếu thốn. Thiếu từ nhà nội trú giáo viên đến các phòng chức năng, trang thiết bị dạy học, phương tiện nghe nhìn. Tạm bợ nhất là khu nhà bếp và khu vệ sinh, các thầy linh động lên rừng chặt lá về lợp, dùng bạt quây lại. Mùa mưa, vắt rừng ngửi thấy hơi người lổm nhổm bò vào tận nhà bếp, khu vệ sinh.
Hằng ngày các cháu học sinh nơi đây phải rồng rắn đến trường trên con đường nguy hiểm men theo suối, đi trên lối mòn đầy đá sỏi trơn trượt. “Vào mùa nắng không nói làm gì, mùa mưa, chỉ cần một trận mưa vừa là thầy phải ra tận suối để dắt các cháu qua. Nếu mưa to kéo dài chắc chắn các cháu phải nghỉ học vì nước suối rất lớn, chảy rất mạnh, không thể nào qua được. Có khi cả lớp đang học, trời đổ mưa không dứt, bắt buộc thầy phải cho trò về sớm. Có lần mới đưa các em qua suối xong thì nước lớn ào ào đổ về. Chậm một chút chẳng biết chuyện gì sẽ xảy ra”- thầy Hoàng Bảo Tăng kể.
Cần một con đường từ bản Cờ Đỏ đến Trường TH số 2 Thượng Trạch và ra tới đường 20, đó là khao khát của đồng bào Ma Coong ở bản Cờ Đỏ và của những người thầy giáo cắm bản dạy chữ nơi đây.
THANH LONG - PHONG DƯƠNG