Nghệ nhân A Nuông giữ được nhiều kỹ thuật đan lát của người Mơ Nâm.Giữ bản sắc Mơ Nâm trong nếp nhà sàn
“Người Mơ Nâm mình phải giữ văn hóa, phải giữ phong tục của mình. Đời sống giờ đã khá hơn trước nhiều rồi, được Đảng và Nhà nước quan tâm, nên càng có điều kiện giữ gìn tốt hơn.” Già A Nuông bộc bạch khi đôi tay vẫn thoăn thoắt đan chiếc gùi theo đúng phong cách của người Mơ Nâm.
Xa xa ngoài khung cửa, cánh đồng lúa của làng Kon Chênh (xã Mang Cành, Kon Plông, Kon Tum) vừa thu hoạch, đàn chim nhỏ sà xuống nhặt những hạt lúa rơi vãi. Lác đác mấy người trẻ đến học đan lát cùng già A Nuông. Ở Kon Chênh, người giữ được bí quyết đan lát của người Mơ Nâm giờ chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, và già A Nuông là một trong số đó.
Du lịch mở ra cơ hội cho làng Kon Chênh phát triển kinh tế. Sản phẩm đan lát của người Mơ Nâm được đưa vào Khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen, bày bán tại các hội chợ, trở thành món quà được du khách ưa chuộng. Gùi ghè, rổ rá, nong nia hay bồ đập lúa - tất cả đều làm từ mây tre, sống lại giá trị của mình trong nhịp sống hiện đại.
Nghệ nhân A Nuông giới thiệu chiếc nỏ và những sản phẩm đan lát của người Mơ Nâm“Nghề này có từ lâu lắm rồi, đời cha đời ông không nhớ nữa. Phải dùng lồ ô (pu ô), xăm lũ (hnớ) và ri (dây mây), chứ ít dùng le như các dân tộc khác.” A Nuông cần mẫn giảng giải cho đám thanh niên Mơ Nâm theo từng động tác đan lát. Đôi tay khéo léo của ông như được tôi luyện qua năm tháng, hầu như chẳng có vật dụng nào trong làng mà ông không thể làm ra.
Hơn 50 năm trước, A Nuông đã quen thuộc với con dao, sợi lạt. Ngày đó, trẻ 12 - 13 tuổi mới tập đan từ những tấm phên thưa (greng) dùng để phơi cá, thịt rừng trên giàn bếp. Khi tay đã quen, người ta mới chuyển sang đan rổ, rá, rồi mới đến nong, nia, đơm, đó và đặc biệt là các loại gùi.
Phổ biến nhất là gùi thưa (kano) - thân chắc, lỗ thưa, dùng để gùi củi, bắp, củ mì. Gùi dày (kachơng) bền hơn, được đan từ lồ ô, xăm lũ hoặc hoàn toàn bằng dây mây. Dây mây - mềm dẻo, bền chắc - là nguyên liệu đan lát lý tưởng nhưng việc lấy mây từ rừng sâu lại vô cùng vất vả. Người Mơ Nâm phân biệt mây thành mây bột (dùng làm thực phẩm) và mây đá (dùng để đan lát).
Người Mơ Nâm có loại gùi dẹp cho nam giới và gùi tròn cho phụ nữ. Những chiếc gùi đan từ dây mây tinh xảo, bền đẹp. Nhìn những chàng trai, cô gái trẻ chăm chú lắng nghe, già A Nuông biết rằng vốn liếng tinh hoa của nghề đan lát sẽ không bị thất truyền.
Tiếng chiêng dài trên mỏm núi
Nghệ nhân A Nuông (người đầu tiên) là người hiểu sâu về kỹ năng diễn tấu cồng chiêng, các nhạc cụ dân tộc.Tiếng chiêng bỗng vang lên bên mép núi. Già A Nuông gác tay đan lát, khoác chiếc áo thổ cẩm, nhanh nhẹn bước ra khỏi nhà. Ông đi dạy cồng chiêng, xoang, chế tác và biểu diễn các nhạc cụ dân tộc cho lớp trẻ trong làng.
A Nuông sinh ra và lớn lên trong tiếng cồng chiêng, tiếng tà vẩu. Từ 15 - 16 tuổi, ông đã đánh thuần thục các bộ cồng chiêng khác nhau và thổi được tà vẩu. Thuở thanh niên, để bày tỏ tình cảm với người thương, các chàng trai phải biết đánh cồng chiêng thật giỏi, thổi tà vẩu thật hay. Say mê học hỏi, A Nuông đã đi khắp các làng trong vùng để học các bài chiêng khác nhau, dần dần trở thành người thông thạo nhất.
Không chỉ đánh chiêng giỏi, già A Nuông còn thuộc nhiều bài hát kể sử thi, hát giao duyên. Ông đã truyền dạy kỹ năng diễn tấu cồng chiêng cho gần 60 người trong làng. A Nuông thường xuyên tham gia các liên hoan văn hóa dân gian do xã, huyện, tỉnh tổ chức, góp phần giữ gìn và phát huy nét đẹp văn hóa của người Mơ Nâm.
Người làng Kon Chênh đã bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc để phát triển du lịch, nâng cao thu nhập.Với những đóng góp to lớn trong việc bảo tồn di sản văn hóa, năm 2019, già A Nuông được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân ưu tú”. Người làng tôn kính, các cán bộ văn hóa trân trọng, chính quyền địa phương cũng tạo điều kiện để ông phát huy vai trò của mình trong gìn giữ di sản.
Ông Nguyễn Văn Tuấn, Chủ tịch UBND xã Măng Cành cho biết: “Nghệ nhân A Nuông là người hiểu sâu về kỹ thuật đan lát, kỹ năng diễn tấu cồng chiêng và các nhạc cụ dân tộc. Ông am hiểu các giá trị nghệ thuật, văn hóa của từng nhạc cụ và không gian diễn xướng trong sinh hoạt cộng đồng qua các lễ hội như lễ mừng lúa mới, lễ bắt máng nước… Ông còn có công lớn trong việc truyền dạy cồng chiêng, chế tác nhạc cụ cho thế hệ trẻ.”
Ngày hay đêm, tại Khu du lịch sinh thái quốc gia Măng Đen, bên bập bùng ánh lửa và những chum rượu cần, du khách hòa mình vào âm thanh rộn rã của chiêng trống và tiếng tà vẩu réo rắt. Lễ hội của người Mơ Nâm đã trở thành sản phẩm du lịch độc đáo, mang lại nguồn thu nhập ổn định cho đồng bào.
Được sự quan tâm từ các chính sách của Đảng và nhà nước, làng Kon Chênh đã sung túc hơn xưa.Các cấp chính quyền thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu cồng chiêng, chế tác nhạc cụ dân tộc, tạc tượng gỗ dân gian và duy trì các nghề thủ công truyền thống như đan lát, dệt thổ cẩm. Nghệ nhân như A Nuông được tôn vinh, tiếp tục truyền dạy để các giá trị văn hóa không bị mai một.
Du lịch đã mở ra cánh cửa cho văn hóa dân tộc phát triển. Công lớn ấy có phần đóng góp không nhỏ của già A Nuông và cộng đồng Mơ Nâm ở Kon Chênh- nơi âm vang cồng chiêng, nét đẹp của nghề đan lát và tình người vẫn rực rỡ giữa đại ngàn.