Tinh hoa trúc chỉ
Nếu Nhật Bản có nghệ thuật giấy Washi hay Hàn Quốc có Hanji - Hàn Chỉ thì Việt Nam tự hào đã có trúc chỉ. Từ những cây cỏ và vật liệu bình dị, thân thuộc như tre, trúc, giang, chuối, ngô, rơm, lục bình, dừa, bã mía, cỏ… trải qua một quá trình hun đúc bởi đất - nước - lửa - gió, cùng quá trình sáng tạo từ bàn tay, trái tim và khối óc của người họa sĩ, những bình dị của đất trời, quê hương, tinh hoa văn hóa và phong tục Việt Nam đã chuyển hóa thành các tác phẩm nghệ thuật. Trúc chỉ có khả năng hấp thu ánh sáng, xuyên sáng và trao lại cho người thưởng lãm nguồn năng lượng tinh khiết.
Điều đặc biệt là mỗi bức tranh hoặc nghệ phẩm trúc chỉ đều là độc bản. Nhiều người lần đầu tiên chiêm ngưỡng trúc chỉ đã bị ngợp trước vùng ánh sáng và chiều sâu tác phẩm. Rồi sau đó, khi có thời gian để ngắm thật kỹ thì từng mảnh xơ sợi, từng vùng dày mỏng trên bức tranh lại thu hút họ lạ thường.
Gần 14 năm theo đuổi nghiệp giấy như một “cái nợ” với nghệ thuật, họa sĩ Phan Hải Bằng, giảng viên Bộ môn Đồ họa - Trường Đại học Nghệ thuật (Đại học Huế) đã tham gia “một cuộc chơi liều lĩnh” để rồi làm nên những loại giấy và tác phẩm hội họa bằng giấy mộc mạc mà cuốn hút. Từ năm 2000, họa sĩ Phan Hải Bằng đã tìm hiểu, nghiên cứu về giấy. Để tạo ra được chất liệu trúc chỉ và nâng lên thành tác phẩm nghệ thuật là cả một hành trình nhiều gian nan. Đến năm 2007, khi tìm được một học bổng của Quỹ Học bổng châu Á do Quỹ Ford bảo trợ, ông mới có một chuyến điền dã, nghiên cứu ở Thái Lan trong một dự án nghiên cứu về giấy thủ công châu Á. Sau 7 tháng “lăn” ra làm ở các xưởng giấy tại các làng quê Thái Lan, người họa sĩ đã thấy mình “mê muội” với giấy.
Năm 2011, khi lãnh đạo Trường Đại học Nghệ thuật Huế tạo điều kiện bố trí cho họa sĩ Phan Hải Bằng một căn phòng làm xưởng. Giấc mơ về một xưởng giấy của ông mới thành hiện thực. Thế rồi ông đã đi thu gom, lượm lặt, nhặt nhạnh gạch, khung gỗ, bàn ghế hư, rơi vãi xung quanh trường về làm bếp lò. Còn nguyên liệu thì vừa tận thu đồ phế liệu, phụ phẩm nông nghiệp, vừa mua tre, trúc ở khắp nơi về chế tác. Nhưng đâu phải chỉ một đôi lần làm thử là thành công ngay. Họa sĩ Phan Hải Bằng chia sẻ, ông đã phải thử nghiệm rất nhiều, thất bại cũng không ít. Tre trúc lồ ô, rơm, bèo lục bình, bã mía... đều được ông thử nghiệm làm nguyên liệu.
Từ xưởng giấy này, tháng 4/2012, một triển lãm sắp đặt các tác phẩm nghệ thuật từ giấy được tổ chức tại 49 Lê Lợi, TP. Huế. Tại đây, tên gọi trúc chỉ đã được chính thức định danh thông qua hình tượng cây tre như biểu hiện văn hóa và tinh thần Việt. Không gian trưng bày trúc chỉ cũng là trụ sở của Công ty TNHH một thành viên Nghệ thuật trúc chỉ Việt Nam tại TP. Huế được họa sĩ Phan Hải Bằng cùng cộng sự đặt tên là Vườn Trúc Chỉ – Truc Chi Garden. Hiện nay, Vườn Trúc Chỉ được đặt tại địa chỉ số 52 đường Nguyễn Phúc Nguyên (phường Kim Long, TP. Huế) với cái tên “Trúc Chỉ KM0”. Không chỉ ở thành phố Huế, hiện nay, trúc chỉ cũng đã có mặt tại KM 650 (Hà Nội) và KM 1000 (TP. Hồ Chí Minh).
Định hình đẳng cấp của giấy
Tại không gian Vườn Trúc Chỉ, những người họa sĩ cùng trúc chỉ đã đưa câu chuyện giấy đi xa hơn rất nhiều. Đó là Ngô Đình Bảo Vi, một hoạ sĩ tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật TP. Hồ Chí Minh; là Trần Xuân Nhật, một chuyên gia về thiết kế cũng là học trò của họa sĩ Phan Hải Bằng, hay chàng trai người DTTS ở vùng cao huyện Bắc Trà My (tỉnh Quảng Nam) Hồ Văn Hưng nhiệt huyết công việc; là Trần Quang Thắng gắn bó với trúc chỉ và họa sĩ Phan Hải Bằng suốt 10 năm nay... Họ đã ở đây vì niềm đam mê với nghệ thuật của giấy. Trong số họ, đã có những người nổi tiếng trong giới hội họa với những giải thưởng mỹ thuật danh giá, nhưng với niềm đam mê trúc chỉ, họ sẵn sàng làm người thợ đứng máy, chẻ tre, đóng khung, hoàn thiện nghệ phẩm với sự nâng niu và mê đắm.
Trong Vườn Trúc Chỉ, người thì miệt mài chăm chút cho lò nung tre nguyên liệu, người cặm cụi với cây bút nước trên khung để tạo tác, cùng làm ra những nghệ phẩm trúc chỉ. Để làm được cũng chẳng hề đơn giản. Tre trúc hay nguyên liệu bèo, dừa, chuối, bắp, rơm, mía, sen, lá thông… đều phải chẻ nhỏ cho đều rồi trộn với nước vôi trong và nấu từ 8 - 10 tiếng đồng hồ. Phải nấu cho tre cùng nguyên liệu mềm rồi đợi lò nguội mới xả lò, mang nguyên liệu ra ngoài làm sạch, xả cặn bã, sau đó đưa vào máy xay thật mịn để tạo ra bột. Bột được đưa vào bể, lắng lọc và trải qua một số công đoạn kỹ thuật nữa rồi mới được vớt lên đưa vào khung xeo, trải đều trên khung cho nghệ sĩ chế tác.
Nếu những họa sĩ đơn thuần cần những mảng màu, thì với nghệ sĩ trúc chỉ phải thành thục kỹ năng điều khiển, bóc tách tạo độ dày mỏng của bột giấy (được gọi là “Đồ họa trúc chỉ - Trucchigraphy). Tùy vào ý tưởng, chủ đề, yêu cầu, mục đích... mà các lớp bột được bóc tách có độ dày mỏng, đậm nhạt, hoa văn, họa tiết và cho ra các sản phẩm trúc chỉ khác nhau. Đấy cũng chính là sự kỳ diệu và rất lạ lẫm của trúc chỉ, gây bất ngờ không chỉ với người thưởng lãm tác phẩm, mà còn với chính nghệ sĩ sáng tác. Cùng với ánh sáng, người xem cảm giác có những xúc tác về mặt vật chất rất rõ. Vượt qua được yếu tố tâm lý tranh 2D thành không gian 3D và đó là một trong những hiệu ứng độc đáo của trúc chỉ. Trúc chỉ đã vươn xa hơn, tiệm cận với nghệ thuật đương đại.
Và điều đặc biệt, việc sử dụng nguyên liệu làm trúc chỉ đã mang lại giá trị cộng đồng, ích lợi xã hội khi biến những phụ phẩm của nông nghiệp, biến những thứ tưởng như bỏ đi, ít giá trị trở thành giá trị hơn. Trúc chỉ do vậy sẽ tạo ra những sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm áp lực về môi trường cho cộng đồng. Bây giờ, trúc chỉ đã định hình được đẳng cấp của giấy. Đã có nhiều giải thưởng về mỹ thuật, văn hóa, nghệ thuật, mỹ thuật ứng dụng được trao cho đội ngũ sáng tạo ra trúc chỉ cùng hàng trăm cuộc triển lãm được tổ chức ở trong và ngoài nước. Nhiều tác phẩm được làm quà tặng cho các nguyên thủ các nước, hay được trưng bày trong những nơi quan trọng. Đơn cử như bức tranh lớn tại Không gian bảo tàng đương đại đường hầm Quốc hội hay tác phẩm “Hào khí Thăng Long” trưng bày ở Văn phòng Chính phủ. Nhiều tác phẩm đoạt giải là sản phẩm tập thể nhưng cũng có rất nhiều sản phẩm là sáng tạo của cá nhân.
“Với những sáng tạo ấy, những hồn cốt mà truyền thống nghệ thuật giấy bên trong của dân tộc được thể hiện ra, làm cho tinh thần phản ánh của trúc chỉ nó có chiều sâu hơn. Một khi giữ được tinh thần ấy, đấy cũng là phát huy được tính dân tộc, là đóng góp lớn của Phan Hải Bằng và trúc chỉ với văn hóa Việt”, PGS.TS Phan Thanh Bình, nguyên Hiệu trưởng Trường Đại học Nghệ thuật Huế nhận xét.
Gần 14 năm miệt mài với giấy, những tác phẩm trúc chỉ đã trở thành những mẫu thiết kế làm quà tặng, đồ lưu niệm, thiết kế trang trí nội ngoại thất, phụ kiện thời trang, trang sức hay các nghệ phẩm dù, nón, quạt, ví, cà vạt, đèn lồng... Gần đây, đội ngũ sáng tạo trúc chỉ còn phát triển dòng nghệ phẩm về tín ngưỡng dân gian, như bài vị, tranh thờ ông Táo, tranh về tôn giáo... cũng được chú trọng phát triển, thỏa mãn nhu cầu của khách hàng.
Theo chia sẻ của Ngô Đình Bảo Vi, Giám đốc Công ty TNHH MTV Nghệ thuật Trúc Chỉ, đồng thời là Giám đốc Điều hành Nghệ thuật Trúc Chỉ Việt Nam thì đó chính là những hướng đi thực tế, đưa nghệ thuật gần với đời sống hơn và có ý nghĩa sống còn với trúc chỉ trong hành trình sau này. Điều đó cũng dung hòa được giữa sáng tác và ứng dụng để chăm lo đời sống vật chất cho đội ngũ người lao động, nhân viên trong công ty, vừa đảm bảo không gian sáng tác như đã ngấm sâu vào máu thịt của những nghệ sĩ.
Nhiều người, nhiều đơn vị cũng đã nghĩ đến việc đưa Trúc Chỉ thành ngành học, đào tạo chính khóa tại các trường nghệ thuật. Tuy nhiên, do những yêu cầu đặc thù của công tác đào tạo cũng như khó khăn khách quan nên chưa thể triển khai tại thời điểm này. “Trúc chỉ được chúng tôi xây dựng để trở thành một sản vật quốc gia mới của người Việt. Những trải nghiệm, những danh hiệu, giải thưởng và sự đón nhận sản phẩm, nghệ phẩm trúc chỉ của cộng đồng gần 14 năm qua mang lại sự động viên lớn lao cho đội ngũ phát triển trúc chỉ. Đấy cũng là trọng trách và cũng là triển vọng cho trúc chỉ trong giai đoạn phát triển mới!”, họa sĩ Phan Hải Bằng chia sẻ.