Sinh ra và lớn lên tại vùng quê lúa Thái Bình, sau khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Thái Nguyên, thầy giáo Vũ Xuân Quế được phân công công tác tại ngành giáo dục tỉnh Quảng Ninh.
Sau đó, thầy chuyển công tác và gắn bó với ngành giáo dục Lào Cai, cùng học sinh vùng cao trải qua giá rét, sương muối lạnh cắt da, cắt thịt.
Học sinh nội trú tại các trường học mà thầy Quế công tác vô cùng vất vả khi không có nước ấm để sử dụng. Sau mỗi buổi học, nếu muốn có nước để tắm, vệ sinh cá nhân, các em phải đun bằng bếp củi với lượng nước nóng rất hạn chế. Sáng sớm, học sinh cũng không có nước nóng để đánh răng, rửa mặt.
Thương những học trò không đủ áo ấm để mặc còn phải sử dụng nước sinh hoạt lạnh buốt nên thầy Quế nghĩ mình phải làm gì đó cho các em.
Vốn là dân Vật lý gắn với cuộc thi khoa học - kỹ thuật nhiều năm, thầy đã nghiên cứu đề tài tận dụng nhiệt thừa khi nấu ăn làm bình nóng lạnh theo nguyên tắc đối lưu từ cách đây 5 năm.
Từ năm 2019, thầy Quế bắt tay vào nghiên cứu hệ thống đun nước nóng công suất lớn với 3 bếp lò đun trấu đã được cải tiến lõi bếp và khay trấu, trong đó đường dẫn nước cũng được cải tiến để bơm một chiều từ bể lạnh qua các lõi nước của bếp ủ.
Điều đáng nói là với hệ thống của thầy Quế thì lưu lượng nước có thể điều chỉnh qua máy bơm giúp tăng giảm nhiệt độ nước nóng đầu ra thông qua đồng hồ hẹn giờ.
“Điểm mới của sản phẩm là hệ thống sử dụng công nghệ ủ giữ nhiệt giúp hạn chế tối đa việc thất thoát nhiệt lượng khi đun bếp, không phải bố trí người trông coi trực tiếp quá trình đun nước, đặc biệt đun nước nóng dùng 24/24 giờ.
Một ngày, lượng nước nóng từ hệ thống có thể đạt 5 - 10 khối, nhiệt độ bình quân từ 50 - 70 độ C. Cùng với đó, nhiên liệu được tận dụng từ rất nhiều loại như trấu, củi rác, lõi ngô. Theo tính toán, một ngày chúng tôi có thể tiết kiệm được trên 500.000 đồng tiền điện nếu phải dùng để đun nước nóng", thầy Quế cho biết.
Không còn phải lên rừng kiếm củi, không phải vất vả trông bếp đun nước như trước kia, giờ đây, sau mỗi buổi học, hơn 300 em học sinh bán trú của trường THCS và THPT Bát Xát đều có thể sử dụng nước nóng thoải mái để vệ sinh cá nhân.
Đáng tiếc, đề tài này được nghiên cứu tiếp với các công trình sau đều không ổn vì lượng nước nóng tạo ra ít. Hơn nữa, học sinh phải mất thời gian ngồi đun, trong khi các em phải đi học.
Trong một lần ký ức tuổi thơ chợt đến, thầy Quế nhớ ngày nhỏ thường vùi cám nuôi lợn giúp bố mẹ. Dù chỉ sử dụng lượng trấu nhỏ nhưng sau 1 đêm, nồi cám 30 - 50 lít không chỉ sôi mà còn rất nhừ. Điều đó trở thành cơ sở để thầy nghĩ ra nguyên tắc ủ nước nóng cho học sinh.
Kể từ khi được đưa vào sử dụng, hệ thống đun nước nóng này giúp các em yên tâm học tập, sinh hoạt, nhất là vào thời điểm mùa đông giá rét.
Đến nay, công trình tạo nước nóng công suất lớn của thầy Vũ Xuân Quế được đưa vào sử dụng tại trường THCS và THPT Bát Xát gần 2 năm.
Đây là công trình rất thiết thực, giải quyết những khó khăn của học sinh vùng cao trong mùa đông giá rét. Hệ thống cấp nước nóng có giá thành rẻ, thiết kế đơn giản bằng công nghệ ủ giữ nhiệt, tận dụng được nhiều nguyên liệu có sẵn, chỉ cần khoảng từ 20 – 25 triệu đồng là có thể xây dựng hệ thống bếp ủ tạo nước nóng công suất lớn này.