Ngày giáp tết Nguyên đán, chúng tôi trở lại Mường Lát, huyện vùng cao biên giới phía Tây tỉnh Thanh Hóa tìm hiểu về cuộc sống, phong tục tập quán đón tết Nguyên đán của đồng bào Mông nơi đây. Như dự định, điểm đến của chúng tôi là xã Pù Nhi để tìm hiểu về những nét văn hóa độc đáo làm giấy dó của đồng bào Mông mỗi khi Tết đến, Xuân về.
Theo anh Lầu Văn Ly, chuyên viên Phòng Văn hóa - Thông tin huyện Mường Lát, cũng là người Mông sống ở xã Pù Nhi, bao đời nay, giấy dó trở thành vật linh thiêng, được xem như linh hồn người Mông, gắn với văn hóa Tết của người Mông. Do đó, mỗi dịp năm mới đến, dù là gia đình giàu hay nghèo đều phải có giấy dó mới để thay trên xử ca (bàn thờ).Thiêng liêng vậy, nên giấy phải do chính những phụ nữ làm thủ công từ các loại cây rừng, mặc dù thị trường hiện nay, có nhiều loại giấy đẹp, nhưng không thể thay thế.
Bà Thao Thị Cho, bản Cá Nọi, xã Pù Nhi, người có kinh nghiệm làm giấy 40 năm nay chia sẻ, từ thời con gái đã được các mẹ, các bà dạy cách làm giấy dó truyền thống, nên giờ chỉ cần nhìn, bà đã biết cây nứa, cây vầu nào sẽ làm ra loại giấy đẹp. Bà bảo, hằng năm cứ vào khoảng đầu tháng Chạp, dù bận bịu phụ nữ trong bản vẫn phải dành thời gian làm giấy, đặc biệt còn phải tranh thủ những ngày có nắng để phơi giấy. Bà Cho cũng cho hay, những ngày qua từ mờ sáng bà đã dậy vào rừng tìm nguyên liệu. Theo bà, những cây giang, cây vầu là nguyên liệu chính để làm giấy. Cây được chọn phải đang thì bánh tẻ, có lóng đẹp, không bị sâu, chặt bỏ đốt, chỉ lấy phần lóng dài. Ngoài ra, còn phải tìm được các loại cây có nhiều nhớt để tạo chất kết dính. “Không biết làm giấy, cũng có nghĩa rằng, không thể trở thành người phụ nữ Mông thực thụ”, bà nói.
Chứng kiến mới thấy, làm giấy thật công phu và trải qua nhiều công đoạn. Lấy được nguyên liệu về nhà, những người phụ nữ dùng dao tước bỏ phần vỏ màu xanh bên ngoài, lấy phần ruột trắng bên trong, chẻ thành từng thanh nhỏ như chiếc đũa rồi rửa sạch, sau đó cho vào nồi gang nấu cùng với loại vỏ cây tạo nhớt trong 12 giờ. Khi đó, nguyên liệu trong nồi đã thành mềm nhừ.
Nấu nguyên liệu làm giấy dó như nấu bánh chưng, phải luôn canh chừng không được để cạn nước, cháy xém. Sau khi nấu, vớt nguyên liệu ra cho lên thớt gỗ đập nhuyễn. Việc đập nguyên liệu cũng rất quan trọng, vì nguyên liệu càng mềm, càng nhỏ, độ mịn giấy thành phẩm càng cao.
Bước tiếp theo, ngâm các nguyên liệu vào trong nước, rồi lọc đi lọc lại, bỏ phần bã để cho ra phần nước cốt mịn nhất. Công đoạn lọc lấy hỗn hợp làm giấy thật tỉ mỉ, như một sự thử thách lòng kiên nhẫn của người phụ nữ Mông. Nếu lọc sơ sài chất lượng giấy không mịn. Nhưng nếu lọc kỹ quá, độ kết dính giảm ảnh hưởng đến chất lượng. Phơi phải được nắng mới cho ra những cuộn giấy trắng, mịn và đẹp.
Phần nước cốt này sẽ được tưới lên khuôn làm bằng vải để phơi ngoài trời nắng. Nắng to từ 1 - 2 ngày là bà con đã có những cuộn giấy thật đẹp để dùng trong ngày Tết.
Thường mỗi tấm giấy thành phẩm có kích thước 1,2m x 1,5m. Mỗi gia đình dịp Tết làm 3 - 5 tấm giấy. Người Mông sử dụng giấy dó vào những việc quan trọng, nhất là thay xử ca (bàn thờ) vào ngày 30 Tết. Xử ca đơn giản gồm, một tấm giấy dài khoảng 30cm, rộng khoảng 20cm, được treo trên tường nhà đối diện hướng từ cửa chính đi vào. Trên xử ca còn đính 3 nhúm lông gà. Ngoài ra, giấy dó còn được dùng trong các nghi lễ, cúng tế, đám ma… Người Mông quan niệm, nó như vật linh thiêng kết nối giữa thế giới người sống với các linh hồn người đã chết.
Cũng là người con của đồng bào Mông, ông Hơ Văn Sáu, Phó Chủ tịch xã Pù Nhi, hiểu và trân trọng phong tục của dân tộc. Ông Sáu cho biết: Phong tục tự làm giấy của đồng bào dân tộc Mông ở đây đã có từ lâu đời. Cứ thế hệ này truyền cho thế hệ sau, nên hầu hết phụ nữ đều biết làm giấy. Giấy dó là vật linh thiêng không thể thiếu trong đời sống văn hóa, cũng như các hoạt động tâm linh của đồng bào. Đây cũng là một nét văn hóa độc đáo cần bảo tồn và phát triển.
Hiện nay, đời sống vật chất người dân ở địa phương vẫn còn nhiều khó khăn. Nhưng người Mông rất coi trọng truyền thống văn hóa của dân tộc. “Bà con quan niệm, ngày Tết, có thể thiếu thịt cá, hay quần áo mới, nhưng không thể thiếu giấy dó tự làm đặt trên thờ cúng tổ tiên. Thật may, đó cũng là điều mà chính quyền địa phương coi trọng và khuyến khích”, Phó Chủ tịch xã Hơ Văn Sáu cho hay.