Ông Quảng Văn Đại, nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Chăm ở xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận cho biết, trước khi người Chăm tiến hành canh tác thì công việc đầu tiên phải làm là chọn ngày tốt, ngày may mắn. Có như thế mùa màng mới “thuận buồm xuôi gió”. Thường là vào hai ngày thứ Tư và thứ Bảy, nhưng phải là ngày chẵn, ngày không kỵ thì mới cúng được.
Khi đã chọn được ngày lành tháng tốt thì công việc tiếp theo là xin các vị thần linh được cày cấy trên thửa ruộng của gia đình, họ tộc. Theo quan niệm của người Chăm, ở thửa ruộng đó còn có thần linh cai quản, do vậy trước khi cày bừa thì họ phải thực hiện nghi lễ xin phép thần linh, thổ công của khu đất đó. Gọi là nghi lễ xuống cày.
Sau khi xin các vị thần linh, người cai quản khoảnh ruộng xong, thì việc tiếp theo là làm lễ trộm cày. Nghe nói đến từ “trộm”, người ta có thể nghĩ ngay đến một hành động xấu, nhưng theo ông Đại thì không phải như vậy. Nghi lễ này để mà xin Yang phù hộ độ trì để xuống cày, gieo hạt.
Ông Quảng Văn Đại cho biết, trong toàn bộ các lễ nghi nông nghiệp đều phải có sự tham gia của các vị chức sắc và thầy cúng. Lễ vật không thể thiếu là dê, rượu và hoa quả.
Trong chu kỳ sinh trưởng và phát triển của cây lúa thì khi lúa ra đòng là giai đoạn quan trọng nhất, tác động đến năng suất thu hoạch. Do vậy, ở thời điểm này, người Chăm chú ý đến việc cầu cúng. Đồng bào quan niệm: Hồn lúa cũng như hồn người. Lễ vật cúng là 1 con dê, 5 mâm cơm, rượu, trứng, trầu cau… Chủ tế lễ là thầy kadhar kéo đàn Rabap, tương tự như đàn nhị của người Kinh, ông Cai mương (Hamu Ia) hoặc ông Camưney. Các vị thần linh được mời về dự lễ. Thầy Kadhar vừa kéo đàn rabap vừa mời các vị thần và hát về những bài thánh ca, ca ngợi công đức của các vị thần mẹ (Po Inư Nưgar) đã dạy người trồng lúa, cày cấy đem lại lúa gạo cho người Chăm và hát ngợi ca các vị thần thuỷ lợi như Po Kluang Garai, Po Rame đã đem nước về cho dân làng tưới tiêu, trồng lúa. Đến khi chuẩn bị thu hoạch, người Chăm lại tiến hành nghi lễ chặn nguồn nước.
Ngày thu hoạch lúa, bà con lại tiếp tục lễ cúng lúa mới. Cứ đến tháng 9, tháng 10 những bông lúa bắt đầu uốn cần câu, lác đác có vài bông lúa chín vàng, các cụ ông, cụ bà hoặc chủ gia đình đi chọn gặt những bông lúa đó, cho các cô gái mang về chòi đập, sẩy, đảo khô, giã làm gạo chuẩn bị lễ cúng lúa mới. Nhà nào tổ chức cúng lúa mới phải mời cả làng cùng dự để lấy may cho năm sau.
Ngày cúng lúa mới, gia đình nào có điều kiện thì thịt một con heo, một con gà cồ, một con gà mái cúng Yàng dẫn đường cho lúa về kho. Lễ cúng còn có một ché rượu cần, một chai rượu trắng. Những hạt lúa mẩy nhất, đẹp nhất, thơm nhất được lựa chọn để dâng cúng các vị thần, thể hiện sự biết ơn các vị thần đã giúp đỡ con người làm nên những mùa vụ tốt tươi.
Người Chăm có quy định không cho phép lúa bị thấm nước, bị rơi đổ khi gánh qua sông, suối, nếu những rủi ro đó không may xảy ra, họ cho là những dấu hiệu mất mùa, phải giết gà, heo, nhắc rượu cúng Yàng xin tha tội.
Lúc cất lúa vào kho, vào bồ to, bồ nhỏ, người Chăm lại có lễ cúng riêng. Đồng bào làm thịt con gà cúng mời hồn lúa từ ruộng về kho. Nếu trên đường vào làng mà lúa phải qua suối, sông thì phải thịt con gà luộc chín hoặc trứng gà cúng bằng cách giăng sợi chỉ trắng qua sông, suối dẫn hồn lúa đi. Đến tháng Giêng, tháng Hai bắt đầu đập lúa, người Chăm lại thịt một con heo cúng. Yàng lúa mở cửa kho lấy lúa xay gạo cũng cúng một con gà, một chén rượu. Tục cúng lúa vào kho là dịp dân làng bày tỏ những tình cảm của mình với núi rừng, với ruộng rẫy đã tạo ra của cải , vật chất để dân làng có cuộc sống ấm no, đầy đủ lúa ăn quanh năm, cũng là dịp để dân làng lấy kho đựng lúa mới. Mặt khác ăn mừng lúa vào kho là tín hiệu đầu tiên báo hiệu những điều tốt lành sẽ tới.