Biểu tượng hàng đá Kut
Không gian nhà Kut được xây dựng ở những nơi xa khu vực sinh sống của con người. Địa điểm chọn đất làm Kut thường ở giữa cánh đồng, bãi đất trống có mặt bằng rộng, ở trong rừng ít có người qua lại. Những vùng đất gò, đồi cao hoặc những nơi gần nguồn nước sạch. Trước đây, nhà Kut được xây dựng đơn giản, ở bên ngoài có vòng thành bằng đá, hoặc được che chắn bằng các cây bụi dại, cây xương rồng để ngăn chặn động vật và con người xâm phạm vào vùng đất thiêng. Ngày nay, nhà Kut được xây cất ngày càng khang trang, có vòng tường thành bao quanh, tại các hàng đá Kut có lợp mái che.
Nhà Kut chỉ có một lối đi vào duy nhất được mở cửa ở phía Nam. Các hàng đá Kut cũng quay mặt về phía Nam. Những phiến đá được chọn để dựng Kut phải được khai thác ở những con sông, con suối, khai thác ở biển. Tuỳ theo, vị thế của từng dòng tộc, đá Kut được điêu khắc, đục, đẽo trang trí một số hoa văn. Nhưng, hoa văn điêu khắc phổ biến nhất là bông hoa 4 cánh, hoa văn hình ngọn lửa và hoa văn hoạ tiết cách điệu như vương miện.
Những hàng đá Kut được sắp xếp theo một trình tự nhất định, có những hàng đá Kut dành người có địa vị xã hội, các tầng lớp chức sắc, tình trạng lúc chết, thuộc giới tính nam hay nữ. Việc nhập cốt vào các hàng đá Kut cũng được phân loại kỹ lưỡng. Nếu việc nhập Kut không tuân thủ theo quy định sẽ làm ảnh hưởng đến cuộc sống của các thành viên của dòng tộc và các thế hệ mai sau. Do đó, người Chăm rất tôn trọng, chấp hành và tuân thủ theo quy định của tập tục, tín ngưỡng nhằm tránh những rủi ro, không may mắn.
Những nghi lễ nhập Kut
Từ đặc trưng của chế độ mẫu hệ, người con gái có quyền đi cưới chồng và sau hôn nhân người con trai về chung sống với gia đình bên nhà vợ. Tuy nhiên, không được gia nhập vào thành viên dòng tộc bên vợ. Người chồng, người cha vẫn duy trì dòng tộc theo huyết thống mẹ, trong tiếng Chăm gọi là talei kamei. Điều này có nghĩa là khi chết đi, người đàn ông sẽ phải quay trở về nhập Kut theo dòng tộc chính thống của mình. Vì vậy, người Chăm có câu thành ngữ: “Daok hadiip ngap mbeng ka urang/ Tel matai ba talang ka amaik”. Dịch nghĩa: “Còn sống thì đi tạo dựng của cải cho người dưng/ Đến khi chết đi mang xương trả về cho mẹ”.
Để tiến hành nghi lễ nhập Kut, sau lễ hoả táng người Chăm giữ lại 9 miếng xương vùng trán có hình dạng đồng xu được đựng trong hộp kim loại bằng chất liệu đồng, bạc hoặc vàng, tiếng Chăm gọi là Klaong. Sau một thời gian khoảng 15-30 năm, dòng tộc sẽ tổ chức lễ nhập Kut. Những hộp Klaong đựng cốt được khiêng trên chiếc kiệu mang đến nhà Kut. Gần đến nhà Kut, các hộp Klaong được đặt trong cơi trầu (Nduen Hala), một người phụ nữ sẽ đội cơi trầu bên trong có hộp Klaong đi vào nhà Kut.
Tại nhà Kut, những hộp Klaong đựng cốt được mang ra làm nghi lễ Patrip talang kapuel. Các thầy Basaih mở nắp Klaong được đậy kín bằng sáp ong ra, lấy từng miếng xương đặt trên lá chuối rồi làm nghi lễ tắm xương bằng nước có pha cát lồi (Amu). Sau đó, những mảnh xương được bỏ vào Klaong trở lại. Lễ vật chính để thực hiện nghi thức Patrip talang kapuel là một con dê, một con gà, một hộp cơm (lisei hop), một mâm bánh gồm có bánh tết cặp, bánh tết đòn, bánh ít, bánh sakaya, bánh ginraong laya, bánh ngọt, trái cây, nải chuối lapa, chuối sứ, hạt nổ, rượu, trứng và trầu cau. Ngoài ra, có thể bổ sung thêm một số món sào, thịt vịt, đồ hải sản tuỳ theo gia đình.
Sau đó, gia đình sẽ giao hộp Klaong được phân theo giai cấp, địa vị xã hội, tình trạng chết xấu, chết tốt và theo giới tính được nhóm thành một nhóm. Các chức sắc Bàlamôn sẽ thực hiện nghi thức Patrip talang haram lần cuối cùng trước khi nhập vào Kut. Lúc này, các hộp Klaong đã được phân loại và đổ dồn chung vào một túi đựng được làm bằng vỏ cây tràm. Túi đựng cốt có hình dạng chữ nhật chiều dài khoảng 20 - 30cm và được buộc chặt bằng những sợi chỉ trắng. Lần lượt các chức sắc mang những túi đựng cốt chết xấu vào chôn trước, rồi đến các dãy hàng đá Kut chết tốt.
Sau khi các chức sắc Basaih nhập Kut xong, những hàng đá Kut được tắm, rửa sạch sẽ, mặc trang phục mới và thắp sáng lên những ngọn nến làm bằng sáp ong. Chức sắc Kadhar và Pajau tiếp tục hát lễ và múa lễ mừng sự kiện trong đại của dòng tộc đã hoàn thành. Khi ông Kadhar hát lễ đến vị thần Po Cei Tathun, bà Pajau thường lên đồng thông báo với dòng tộc việc nhập Kut đã thành công, tổ tiên luôn luôn phù hộ độ trì cho con cháu trong dòng tộc.
Nhập Kut - Sợi dây kết nối dòng tộc
Kut của người Chăm là nơi chôn cất những mảnh xương trán giống như một nghĩa trang của dòng tộc. Các thành viên của dòng tộc sinh thời có thể sinh sống bất kỳ nơi nào nhưng cuối đời trở về yên nghỉ tại nhà Kut của dòng tộc. Những thành viên của dòng tộc họ nhận diện nhau không chỉ bằng huyết thống mà còn dựa vào nguồn gốc dòng tộc, tạo nên mạng lưới kết nối lẫn nhau qua các thế hệ.
Thậm chí, do một số nguyên nào đó, từ một cội nguồn dòng tộc, chia tách Kut mới, đặt tên Kut mới nhưng người Chăm vẫn không cho phép quan hệ hôn nhân. Họ cho rằng, con cháu có cùng tổ tiên, có gốc chung dòng tộc thì không nên có không hệ hôn nhân, sợ làm thần linh nổi giận làm ảnh hưởng đến cả dòng tộc. Chính vì vậy, sợi dây vô hình kết nối, cố kết cội nguồn thêm bền chặt không một thế lực nào có thể ngăn chặn sự liên hệ một cách tự nhiên giữa những người trong một dòng tộc.
Hơn thế nữa, các giá trị văn hoá, phong tục tập quán, tín ngưỡng được nuôi dưỡng, phát triển và lưu truyền cho các thế hệ mai sau. Những kinh nghiệm lao động sản xuất, nghề thủ công truyền thống được các dòng tộc bảo tồn và phát huy tạo nguồn sinh kế cho gia đình và gia tộc. Niềm tự hào về văn hoá dòng tộc tạo động lực cho các dòng tộc ý thức nguồn cội, trân trọng gìn giữ những giá trị bản sắc văn hoá truyền thống, tạo bước tiền đề cho quá trình hội nhập và phát triển chung trong xã hội hiện đại.
Kut một biểu tượng để tưởng niệm về ông bà, tổ tiên những người đã quá cố, để thế hệ con cháu noi gương bảo tồn các nề nếp của văn hoá gia đình và gia tộc. Với nét đặc trưng của chế độ mẫu hệ, thể hiện qua tín ngưỡng thờ đá Kut người Chăm bảo tồn nhiều tín ngưỡng, văn hoá truyền thống góp phần làm phong phú và đa dạng văn hoá tộc người.