Xu hướng chuyển dịch sang mô hình gia đình hạt nhân
Theo số liệu điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số, tính đến 01/4/2019, toàn quốc có gần 3,7 triệu hộ dân tộc thiểu số, chiếm 13,7% tổng số hộ của cả nước. 83,3% hộ dân tộc thiểu số sống ở khu vực nông thôn. Số người bình quân một hộ dân tộc thiểu số là 4,1 người, giảm 0,3 người/hộ so với năm 2015 nhưng vẫn cao hơn số người số người bình quân một hộ của cả nước (3,6 người/hộ).
Theo phân tích của Tổng cục Thống kê, quy mô hộ thấp và giảm dần phản ánh mức sinh của Việt Nam nói chung và của 53 dân tộc thiểu số nói riêng đã giảm trong nhiều năm qua. Ngoài ra, tình trạng này cũng phản ánh xu hướng tách hộ, tức là chuyển sang mô hình gia đình hạt nhân thay vì mô hình gia đình truyền thống nhiều thế hệ như trước đây và xu hướng di cư của lực lượng lao động người dân tộc thiểu số.
Tại khu vực thành thị, quy mô hộ dân tộc thiểu số là 3,6 người/hộ; ở khu vực nông thôn là 4,2 người/hộ. Các dân tộc có quy mô người/hộ cao nhất là Mông (5,3 người/hộ), Khơ Mú và Mảng (4,8 người/hộ). Rơ Măm, Brâu, Hrê, Tày, Pu Péo là những dân tộc có quy mô hộ nhỏ nhất với 3,5 người/hộ hoặc 3,6 người/hộ.
Quy mô phổ biến của 53 dân tộc thiểu số là từ 2 - 4 người/hộ, chiếm 59% tổng số hộ. Tỷ lệ hộ độc thân chiếm 5,6%; hộ từ 7 người trở lên chiếm 7,9%. Một số dân tộc có tỷ lệ hộ từ 7 người trở lên cao gồm: Mông (24,2%), Mảng (20,5%), Khơ Mú (15,1%), Lô Lô (15%)…
Nghèo, cận nghèo trong các hộ gia đình dân tộc thiểu số còn cao
Tình trạng nghèo và cận nghèo ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi, nhất là tình trạng nghèo của người dân tộc thiểu số đang là thách thức lớn hiện nay ở nước ta. Tính đến cuối năm 2020, hộ nghèo dân tộc thiểu số trong tổng số hộ nghèo cả nước chiếm 61,29%, trong khi dân số dân tộc thiểu số chỉ chiếm 14,7% dân số cả nước.
Tỷ lệ hộ dân tộc thiểu số nghèo và cận nghèo ở khu vực biên giới cao gấp 1,5 lần khu vực khác; ở khu vực nông thôn cao xấp xỉ 4 lần khu vực thành thị. Gần một nửa số hộ dân tộc thiểu số ở các xã vùng dân tộc thiểu số khu vực Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung là hộ nghèo và cận nghèo.
Điều tra của Ủy ban Dân tộc và Tổng cục Thống kê chỉ ra sự khác biệt lớn về mức độ nghèo giữa các dân tộc. Dân tộc Hoa, dân tộc Ngái hầu như không còn hộ nghèo. Ngược lại, dân tộc Co, Xinh Mun, La Hủ, Chứt, Mảng, Pà Thẻn lại có số hộ nghèo và cận nghèo lên tới 70%. Đặc biệt dân tộc Chứt có tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo lên đến 89,3%, nghĩa là cứ 10 hộ dân tộc Chứt thì có đến 9 hộ thuộc diện nghèo hoặc cận nghèo.
Ngoài ra, trên cả nước vẫn còn 21 dân tộc có tỷ lệ hộ nghèo chiếm hơn 50%, trong đó có dân tộc Mông - một trong những dân tộc có dân số đông (trên 1 triệu người) nhưng số hộ nghèo và cận nghèo chiếm đến 2/3 (65,5%).
Nhiều hạn chế về điều kiện nhà ở, sinh hoạt
Cả nước còn 20,8% hộ dân tộc thiểu số đang sống trong những ngôi nhà thiếu kiên cố hoặc đơn sơ. Diện tích nhà ở bình quân đầu người của các hộ dân tộc thiểu số là 16,9m2/người, thấp hơn 6,3m2/người so với bình quân chung cả nước.
Đặc trưng văn hóa của mỗi dân tộc có thể được thể hiện qua rất nhiều hình thức như: trang phục, âm nhạc, các phong tục tập quán và cả kiến trúc của những ngôi nhà mà họ sinh sống. Tuy nhiên, hiện chỉ có 26,2% hộ dân tộc thiểu số đang ở trong những ngôi nhà truyền thống của dân tộc mình, giảm 3,1% so với năm 2015.
Nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm nhà hoặc sát cạnh nhà thường phổ biến ở vùng dân tộc thiểu số do đặc điểm xã hội và phong tục tập quán của các dân tộc. Tuy nhiên, lối sống này ảnh hưởng đến sức khỏe và chất lượng cuộc sống của bà con. Toàn quốc hiện còn 24,4% hộ dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Lự, La Chí, Ơ Đu, Mông nuôi nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm sàn hoặc sát cạnh nhà đang ở. Khoảng cách từ nhà của hộ dân tộc thiểu số đến các cơ sở hạ tầng gần nhất bao gồm trường học, bệnh viện, chợ hoặc trung tâm thương mại còn xa. Khoảng cách trung bình từ nhà đến chợ của hộ dân tộc thiểu số hiện là 8,9km - khá xa để các hộ có thể thường xuyên tiếp cận hoạt động giao thương buôn bán, trao đổi.
Khoảng cách trung bình từ nhà đến bệnh viện gần nhất của đồng bào là 14,7 km; từ nhà đến trường tiểu học và trung học cơ sở gần nhất là 2,2 và 3,7km. Tuy nhiên, khoảng cách đến trường trung học phổ thông vẫn tương đối xa, tới 10,9km. Các dân tộc Ơ Đu, Mảng, Cống, La Ha, Si La có khoảng cách từ nhà đến các cơ sở cung cấp dịch vụ công cộng thuộc nhóm xa nhất.
Tình trạng tảo hôn của người dân tộc thiểu số giảm nhưng vẫn ở mức cao. Cứ 10 người dân tộc thiểu số thì có 2 người tảo hôn. Hôn nhân cận huyết thống của người dân tộc thiểu số đã giảm nhưng vẫn gia tăng ở một số dân tộc thiểu số như: La Chí, Bru Vân Kiều, Lô Lô, Gia Rai, La Ha.
Cần nhiều giải pháp đồng bộ
Trong Chỉ thị số 06-CT/TW của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng gia đình trong tình hình mới nêu rõ: “Xác định gia đình là một trong những nhân tố quan trọng quyết định sự phát triển bền vững đất nước. Gia đình là đối tượng tác động, thực hiện và thụ hưởng chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh là một trong những nội dung quan trọng, yêu cầu xuyên suốt của sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước”.
Chỉ thị của Ban Bí thư cũng yêu cầu: “Gắn việc thực hiện công tác xây dựng gia đình với Đề án tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi”.
Theo tổng kết của Ủy ban Dân tộc, vùng dân tộc thiểu số và miền núi đến nay vẫn là địa bàn khó khăn nhất; chất lượng nguồn nhân lực thấp nhất; kinh tế - xã hội chậm phát triển nhất; tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản thấp nhất; tỷ lệ hộ nghèo và cận nghèo cao nhất, giảm nghèo thiếu bền vững; khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các dân tộc, vùng miền ngày càng tăng lên.
Vùng dân tộc thiểu số đang ngày càng bị tụt hậu so với sự phát triển chung của cả nước. Hộ nghèo dần chỉ còn là người dân tộc thiểu số và có nguy cơ bị bỏ lại phía sau. Những khó khăn này đang từng ngày, từng giờ tác động tới cuộc sống của các gia đình người dân tộc thiểu số.
Để xây dựng gia đình người dân tộc thiểu số no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, trước hết, cần tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức đảng về Chỉ thị 06 nói riêng, các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nói chung về công tác dân tộc.
Bên cạnh đó, cần tập trung phát triển toàn diện kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số, miền núi, ưu tiên đầu tư cho vùng đặc biệt khó khăn. Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi gồm 10 dự án thành phần, được thực hiện ở địa bàn xã, thôn vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi trong giai đoạn 2021 - 2025, với mức vốn tối thiểu được Quốc hội phê duyệt trên 137 nghìn tỷ đồng chính là sự cụ thể hóa quan điểm của Đảng, Nhà nước về việc ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Khi kinh tế - xã hội của vùng dân tộc thiểu số và miền núi phát triển toàn diện sẽ tác động ngược trở lại đến sự phát triển của mỗi gia đình người dân tộc thiểu số theo các tiêu chí: no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh, tạo điều kiện để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào, thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với các vùng phát triển.
Ngoài những giải pháp tổng thể, lâu dài của Nhà nước, trước mắt, cần phát động phong trào ăn, ở hợp vệ sinh trong mỗi gia đình người dân tộc thiểu số. Vận động xóa bỏ nạn tảo hôn, chấm dứt tình trạng hôn nhân cận huyết thống để cải thiện tầm vóc, sức khỏe của đồng bào./.