Hằng ngày, lò rèn của ông Dương vẫn luôn đỏ lửa, để các lớp trẻ đến học nghềNghỉ tay mời khách uống chén trà, ông Dương tranh thủ châm điếu thuốc vừa hít một hơi dài rồi kể chuyện: Nghề rèn của người Xơ Đăng ra đời khá lâu, nó đã gắn bó với ông từ khi 15 tuổi. Khi đó ông đã theo cha vào rừng tìm củi đốt than để về rèn. Đến bây giờ đã ngoài 60, ông cũng không còn nhớ nổi mình đã rèn bao nhiêu cái dao, rựa, rìu, lưỡi mác, cuốc, đồ chọc tỉa... để phục vụ để bà con có vật dụng làm rẫy, đi rừng chặt cây, săn bắt, kiếm củi, bẻ măng,…
Nghề rèn truyền thống của người Xơ Đăng chủ yếu đỏ lửa lúc nông nhàn hay dịp đầu năm để chuẩn bị cho mùa nương, khai hoang lúa rẫy mới. Trước đây, các sản phẩm làm ra chỉ để trao đổi lương thực, thực phẩm và giúp bà con, anh em, họ hàng trong làng có vật dụng làm rẫy, đi rừng.
Những năm gần đây, thì nghề rèn không còn được như xưa. Nhu cầu sử dụng của bà con ngày càng giảm, thợ rèn chỉ có thể sản xuất cầm chừng. Nhưng lửa rèn cứ cháy mãi trong tim, trở thành động lực và niềm thôi thúc để ông cố gắng bám trụ để giữ lại nghề rèn truyền thống của người Xơ Đăng.
Địa bàn cư trú của người Xơ Đăng xung quanh tồn tại những quặng sắt tự nhiên xung quanh các ngọn đồi. Những quặng sắt này có hàm lượng sắt rất cao thường ở dạng cục và dạng cát. Tuy vẫn còn khá thủ công, nhưng lò rèn của ông Hồ Văn Dương bây giờ đã được cải tiến cơ bản, kết hợp với một số vật liệu sắt, thép khác để cho ra kiểu bếp lò quay bằng tay khá đơn giản nhưng tiện dụng.
Ông Dương cho biết, kỹ thuật rèn của người Xơ Đăng không được ghi chép bài bản, chỉ có người đi trước truyền lại cho người đi sau. Để có một sản phẩm ưng ý phục vụ sinh hoạt, sản xuất, ông phải tìm cho được sắt thép tốt, từ cách chọn than cho đến đặt bếp cũng phải đòi hỏi kỹ thuật cao.
Người Xơ Đăng sở hữu phương thức bí truyền để tạo ra thỏi sắt chất lượng cao để làm dụng cụ lao độngĐể nung được quặng sắt, người Xơ Đăng phải lên rừng tìm được cây rừng có tên gọi là loăng rlinh để làm than. Chỉ với loại than từ loại cây này, lửa lò rèn mới đủ độ nóng cần thiết có thể nung chảy quặng sắt tự nhiên. Cần tính toán kỹ lưỡng mỗi khi bắt tay vào rèn một sản phẩm, phải thổi lửa sao cho sắt đỏ vừa phải, phù hợp. Mỗi lần đập búa bao giờ cũng một tiếng nặng, một tiếng nhẹ để tạo nên sự chính xác nơi nện búa. Người Xơ Đăng sở hữu phương thức bí truyền để tạo ra thỏi sắt chất lượng cao, chắc bền và không bị mẻ, gãy khi sử dụng.
Khi đã có những thỏi sắt ưng ý, theo truyền thống thợ rèn người Xơ Đăng không sử dụng than loăng rlinh nữa mà chỉ sử dụng những loại cây khác để cho nhiệt độ thấp hơn. Để cho ra thành phẩm từ thanh sắt, thép thô, người thợ rèn phải trải qua nhiều công đoạn, đòi hỏi rất nhiều công sức.
Sắt, thép sau khi dùng búa tạ đập cho nhẵn ra được đưa vào lửa nung đến khi đỏ rực. Khâu này đòi hỏi thợ rèn phải có nhiều kinh nghiệm, nhìn độ hồng của sắt và thép trên ngọn lửa để nhận biết được quá trình nung đã đạt hay chưa. Tiếp đến, dùng búa đập nhiều lần tạo hình và mài thủ công từng chi tiết đến khi cho ra thành phẩm.
Theo ông Hồ Văn Dương trong các khâu quan trọng nhất, là quy trình chế tác “nước tôi”, người Xơ Đăng thường dùng mai con rùa nấu keo lại, nghĩa là cho sản phẩm qua lửa lần cuối rồi nhúng vào đó. Sau khi nhúng xong, người thợ mang đi mài lần cuối để hoàn chỉnh sản phẩm.
Nước tôi già hay non ảnh hưởng đến độ sắc của dụng cụ. Nước tôi sẽ quyết định độ bền của sản phẩm. Tùy vào sản phẩm và dụng cụ mà giá bán khác nhau, như dao phát rẫy và rựa có giá từ 250 - 300 ngàn đồng, rìu và lưỡi mác thì giá từ 400-450 ngàn đồng, cuốc, đồ chọc tỉa có giá từ 150 - 170 ngàn đồng, dao vót nan thì có giá 140 ngàn đồng,...
Từ xưa đến nay người Xơ Ðăng vẫn giữ các nghi lễ gắn với nghề rèn. Theo quan niệm, trước mùa rèn, người Xơ Ðăng thường tổ chức cúng Giàng ngay tại lò. Lễ cúng Giàng thường gồm có con gà, ghè rượu và do người thợ rèn chính của làng đứng ra làm lễ. Họ lấy rượu, huyết gà bôi lên chiếc đe, hòn đá mài, chiếc búa và khấn Giàng với ước nguyện người thợ rèn sẽ làm ra nhiều mẻ sắt, rèn được nhiều dao sắc, cuốc bền.
Đến học nghề rèn, ngồi chăm chú theo dõi từng động tác trui, đập, mài, anh Hồ Văn Lượng (30 tuổi), thanh niên cùng thôn cho biết: Nghề rèn này đang dần mai một và có nguy cơ thất truyền, bởi lớp trẻ Xơ Đăng hiện nay ở địa phương không mấy quan tâm đến nghề. Dẫu vậy, tôi tin rằng với sự nỗ lực của bản thân và sự động viên của chú Hồ Văn Dương, một ngày nào đó thế hệ trẻ sẽ lại đam mê, thắp lại những lò rèn rực lửa.
Ông Đoàn Ngọc Hoài, Phó Chủ tịch UBND xã Trà Nam cho biết: Từ trước đến nay, đồng bào Xơ Đăng luôn coi trọng nghề rèn truyền thống. Dù cuộc sống hiện đại có thay đổi đến mấy, song “cái gốc” những làng nghề truyền thống của người Xơ Đăng nói chung, trong đó có nghề rèn của gia đình anh Hồ Văn Dương luôn được giữ gìn và phát triển.
Các ngành chức năng và chính quyền địa phương cũng đang nỗ lực tìm hướng khôi phục nghề rèn truyền thống của đồng bào Xơ Đăng, để góp phần tăng năng suất lao động, đáp ứng nhu cầu sản xuất trong hành trình xây dựng nông thôn mới, góp phần giữ gìn bản sắc văn hóa của đồng bào Xơ Đăng nơi đây.