Các dân tộc ít người cư trú ở vùng núi rừng Trường Sơn-Tây Nguyên đều có tục dựng cây nêu trong các lễ hội cộng đồng. Cây nêu kết nối giữa đất và trời, giúp cho con người giao cảm được với thần linh.
Một lễ hội lớn do cộng đồng làng tổ chức, việc quan trọng hàng đầu là phải làm cây nêu. Nó được xem là tâm điểm của lễ hội. Mọi hoạt động, nghi lễ, diễn xướng dân gian đều diễn ra xung quanh cây nêu. Hầu như dân tộc nào cũng có tục làm cây nêu, hình thức trang trí nghệ thuật của nó tùy theo qui mô của lễ hội hay sự đầu tư và khéo tay của các nghệ nhân trong làng.
Trong các dân tộc ở vùng Trường Sơn, thì người Cor là dân tộc sáng tạo ra nhiều loại cây nêu nhất: nêu phướn (xa glák), nêu thượng (xa cô), nêu xa cóh, nêu lá (xa xje), nêu bắp chuối (cót kjá), nêu dù (gâk đlu); nêu đu đủ (pa-lay đu)... Trong các loại cây nêu, nêu phướn (xa glák) là loại nêu được đầu tư kỳ công nhất, được dựng lên rất cao. Đồng bào gọi là nêu phướn vì có đan lá phướn treo từ đỉnh nêu thòng xuống, có đẽo hình chim chèo bẻo treo trên đầu nêu. Nêu bắp chuối (cót kjá) cao khoảng 6m, đầu nêu có hình bắp chuối chỉa thẳng lên trời nên gọi là nêu bắp chuối.
Người Ba Na gọi cây nêu là Gâng. Cây thường dùng để làm cây nêu là cây tre hoặc cây lồ ô ở trong rừng có thân thẳng tắp. Cây nêu của người Ba Na gồm 03 tầng, tượng trưng cho: mặt đất, khoảng không vũ trụ và tầng trời. Cây nêu có ý nghĩa quan trọng và rất linh thiêng đối với người Ba Na. Đồng bào tin rằng, đây là nơi giao hòa giữa con người với thần linh, là nơi trú ngụ của thần linh để xua đuổi tà ma, bảo vệ dân làng… Sự hài hòa giữa sắc màu đen, đỏ, trắng, vàng trên cây nêu tượng trưng cho màu của tình yêu, của khát vọng, của sức sống vươn lên của con người.
Người Ê-đê gọi là Gơng drai. Nó được làm từ loại cây thân mềm (cây xoan). Có hai loại cây nêu: cây dựng trong nhà (cao 2,5m) và cây dựng ngoài trời (cao 3-4m). Nổi bật trên phần ngọn là biểu tượng bắp chuối, thể hiện sự kết nối giữa đất trời, sự giao tiếp giữa các vị thần và linh hồn vạn vật với con người. Phần thân của cây nêu trang trí hai màu đỏ (huyết) và màu vàng (thân cây). Hình tượng trang trí ở thân câu nêu hiện rõ mô típ chong chóng và tổ ong, trong đó chong chóng tượng trưng cho thời tiết (mưa thuận gió hòa); tổ ong tượng trưng cho sự dồi dào nguồn thức ăn từ thiên nhiên ban tặng với quan niệm mùa màng bội thu...
Cây nêu, cột lễ là cột “thiêng” vì đây là nơi thần linh hội tụ về dự lễ; bàn thờ cúng dâng lễ vật hiến sinh cho thần linh; nơi trình diễn điệu múa nghi lễ dân gian như điệu Xoang của người Jrai, Ba Na, “Tân tung za zá” của người Cơ-tu, Ka đáu của người Cor.... Đó là không gian thiêng kết nối, thông quan giữa thần linh với con người. Với ý nghĩa như vậy, cây nêu thường được làm cao hơn, trang trí cầu kỳ hơn những vật trang trí khác. Sẽ không quá lời khi nói rằng: cây nêu là vật trang trí đẹp nhất của các tộc người trong các lễ hội cộng đồng, là một trong những di sản quý giá của các dân tộc sinh sống trên đỉnh Trường Sơn hùng vĩ.
TẤN VỊNH