Nghệ thuật thư pháp Nhật Bản ra đời vào khoảng thế kỷ VI, chịu ảnh hưởng lớn từ nghệ thuật thư pháp Trung Hoa. Tuy nhiên, người Nhật đã có những cách tân riêng để tạo ra một trường pháp nghệ thuật thư pháp riêng của xứ sở mặt trời mọc, trong đó tiêu biểu nhất là hệ thống chữ Kana.
Trong thư pháp Nhật Bản, sự khởi đầu, hướng đi bút, hình thức, sự kết thúc của các đường, sự cân bằng giữa các nhân tố là vô cùng quan trọng. Chữ tượng hình, về bản chất, là sự hài hòa, cân đối và thăng bằng. Có tới 2.136 ký tự kanji trong tiếng Nhật Bản mà trẻ em Nhật Bản phải học từ bé. Những ký tự tượng hình này được các nghệ nhân thư pháp truyền tải lên mặt giấy trắng vô cùng tài tình, tạo nên những bức thư pháp mang đậm ý nghĩa biểu trưng, thể hiện khí chất và tâm hồn của người nghệ sĩ.
Thư pháp Nhật Bản có 3 phong cách viết chính gồm: Kaisho, có nghĩa là “viết thư pháp kiểu vuông”, là kiểu viết nhập môn của thư pháp, người mới bắt đầu học đều phải ngày ngày luyện viết kiểu chữ này. Kiểu chữ này rất tốt trong việc tạo nền tảng cho học viên sử dụng bút lông để viết chữ thư pháp. Trong phong cách Kaisho, mỗi nét chữ được viết ra đều thể hiện được sự cẩn thận và rõ ràng, tạo được kiểu thư pháp theo lối chữ in mà chúng ta có thể nhìn thấy trên các tờ báo.
Gyousho có nghĩa là là “viết thư pháp kiểu nhanh” muốn nói đến phong cách viết nửa chữ thảo trong thư pháp Nhật Bản, cách viết mà hầu hết mọi người hay sử dụng nhiều trong ghi chú. Không giống với cách viết chữ thảo trong tiếng Hoa, trong phong cách Gyousho, những nét chữ được viết rời rạc theo phong cách Kaisho được kết hợp với nhau, tạo thành phong cách viết trôi chảy và lưu loát hơn.
Chữ viết theo kiểu này thường phổ thông và dễ đọc đối với đại đa số tầng lớp tri thức ở Nhật Bản.
Sousho là “kiểu thư pháp nhiều nét”, đề cập đến phong cách viết chữ thảo trôi chảy trong thư pháp Nhật Bản. Với cách viết này, người đọc rất khó đọc vì các nhà thư pháp hiếm khi cho phép bút lông của mình rời khỏi giấy, để có được nét chữ thanh nhã và nhanh hơn. Chỉ duy nhất những người nào học viết kiểu thư pháp này mới có thể dễ dàng đọc được nguyên bản thể thư của nó.
Trong các tác phẩm thư pháp Nhật Bản, tính nhân văn được biểu hiện một cách thuần túy, nguyên vẹn và cách sống, cách suy nghĩ của tác giả cũng được phản ánh rõ nét trong từng tác phẩm thư pháp. Để cảm nhận trọn vẹn vẻ đẹp cả về cách thể hiện và tinh thần của một tác phẩm thư pháp, đòi hỏi cả người viết và người xem phải có sự đồng điệu về tâm hồn, đồng nhất về tri thức và trình độ. Theo phân loại của Hội Thư pháp Mainichi của Nhật Bản, thư pháp truyền thống đến thư pháp hiện đại của Nhật Bản có thể được xếp theo 7 trường phái sau: Thư pháp chữ Hán; Thư pháp chữ Kana; Thư pháp thơ văn cận đại; Thư pháp viết chữ cỡ lớn; Thư pháp chữ in bằng khuôn khắc đá-Tenkoku; Thư pháp chữ khắc gỗ; Thư pháp ZenEi.
Dụng cụ để thực hành thư pháp ngoài giấy tuyên, các dụng cụ truyền thống để viết thư pháp gồm: thỏi mực; nghiên mực để mài mực; chặn giấy; lót giấy; cọ dùng để viết; ấn (triện): nghệ thuật khắc ấn được gọi là tenkoku. Các học viên được khuyến khích tự khắc ấn riêng. Vị trí của dấu chiện này tùy thuộc vào quan niệm thẩm mĩ.
Ở Nhật Bản, thư pháp được coi như là một bộ môn nghệ thuật hiện đại, đang được tiến hành theo tinh thần cách tân. Sức sống của thư pháp trong đời sống hiện đại Nhật Bản biểu hiện ở lịch triển lãm định kỳ vào đầu tháng 7 hằng năm tại Tokyo và 9 thành phố khác ở Nhật Bản cũng như tại gần 20 quốc gia trên thế giới. Ngoài ngày mùng 2 tháng 1 hằng năm là ngày hội viết chữ của cả nước, thư pháp còn được tổ chức vào những dịp hiếu, hỉ, mừng tân gia hay mừng nhập môn, nhập trường… Hiện nay, thư pháp đã được đưa vào chương trình giáo dục phổ cập cho học sinh phổ thông của Nhật Bản.
THU HÀ