Bến đò trong Khu du lịch Hầm Hô Hầm Hô nằm ở xã Tây Phú, huyện Tây Sơn, cách trung tâm thành phố Quy Nhơn khoảng 50 km về phía Tây Bắc. Quần thể Khu du lịch Hầm Hô trải dọc theo quãng sông dài 3km, rộng 30m với nhiều phiến đá ngầm, đá nổi với muôn hình kỳ thú. Hầm Hô là nơi giao nhau giữa hai dòng sông Đồng Hưu và sông Cát cùng đổ về Phú Phong, mở ra không gian thiên nhiên lãng mạn, hữu tình. Đoạn sông chảy giữa hai dãy núi đá granit, tạo thành một khe nước trong xanh và hiền hòa. Đến Hầm Hô, du khách không chỉ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp của đập Hầm Hô mà còn có cơ hội khám phá thác Cá Bay và nhiều địa danh: Đá Đôi, Đá Dựng, Đá bóp vú, Đá Trải, Đá Bàn Cờ, Đá Chùm… được thiên nhiên sắp đặt như bàn tay hữu ý.
Nếu ban ngày, Hầm Hô là bức tranh thủy mặc sống động, thì về đêm, nhất là những đêm trăng, nơi đây khoác lên vẻ đẹp huyền ảo khó tả. Ánh trăng như dải lụa bạc trải dài trên mặt nước, soi qua tán rừng cổ thụ, phản chiếu lấp lánh lên những phiến đá nhấp nhô. Trong làn sương mỏng, tiếng mái chèo khua nhẹ vang lên giữa không gian tĩnh lặng. Con thuyền lặng lẽ trôi giữa hai bờ nguyên sinh, từng nhịp chèo như đưa ta ngược dòng thời gian, trở về với quá khứ oai hùng của vùng đất võ Tây Sơn. Trong bóng tối dìu dịu của đại ngàn, ánh trăng như ánh mắt lịch sử soi rọi từng nhịp nước, khiến cảnh vật vừa lãng mạn vừa linh thiêng. Một đêm trăng lênh đênh trên sông Hầm Hô không chỉ là trải nghiệm du lịch, mà là hành trình kết nối giữa thiên nhiên, hồn thiêng sông núi và trái tim người hậu thế.
Các chòi câu cá thư giãn trên hồ bên trong khuôn viên Khu du lịch Hầm Hô.Tên gọi “Hầm Hô” là một địa danh độc đáo gắn liền với nhiều truyền thuyết và cách lý giải dân gian, phản ánh sự giao thoa giữa thiên nhiên và văn hóa của vùng đất Tây Sơn, Bình Định.
Một trong những giả thuyết phổ biến cho rằng, tên gọi này bắt nguồn từ âm thanh đặc trưng phát ra khi nước từ thác cao khoảng 6 - 7 mét đổ xuống các hầm đá rộng, tạo nên tiếng vang vọng như tiếng hô hoán. Âm thanh này được cho là lời cảnh báo tự nhiên cho người dân khi chèo bè mảng trên dòng sông, báo hiệu sắp đến đoạn nguy hiểm cần đề phòng.
Một cách lý giải khác dựa trên hình ảnh địa hình: tại miệng hầm, các khối đá mọc lởm chởm, nghiêng ngửa, tạo hình giống như một hàm răng hô há hốc. Người dân địa phương, với tính cách giản dị, đã gọi tắt là “Hầm Hô”.
Ngoài ra, theo truyền thuyết dân gian, vào những đêm cầu mưa, người dân tụ họp tại Hầm Hô để cúng trời đất. Khi lễ cầu mưa bi thiết đã thấu trời đất, giữa đêm khuya thanh vắng, người ta nghe rõ những âm thanh ào ào như nước cuốn, vù vù như gió bay, lẫn trong ấy có tiếng hô hoán của đông người như tiếng thần linh đang hú gió, gọi mây. Vì vậy mà có tên là “Hầm Hô”.
Dù chưa có công trình khoa học nào xác định chính xác nguồn gốc tên gọi, những cách lý giải trên đều phản ánh mối liên hệ sâu sắc giữa con người và thiên nhiên tại Hầm Hô, nơi mà âm thanh, hình ảnh và truyền thuyết hòa quyện, tạo nên một địa danh vừa hùng vĩ, vừa huyền bí.
Nhưng điều khiến Hầm Hô trở nên thiêng liêng trong tâm thức người dân Bình Định không chỉ là vẻ đẹp địa hình hay dòng nước trong xanh, mà còn là những truyền thuyết lịch sử gắn liền với thời đại Tây Sơn. Trong số đó, nổi bật là câu chuyện tình giữa nữ tướng Bùi Thị Xuân và danh tướng Trần Quang Diệu - một giai thoại nhuốm màu sử thi.
Chiếc cầu nhỏ nối 2 bờ sông tại trung tâm Khu du lịch Hầm Hô - Ảnh Xuân HiềnTương truyền rằng, vào một sáng mùa xuân, khi Trần Quang Diệu đang đi dọc Hầm Hô để tìm về đường về đầu quân cho nhà Tây Sơn. Trong không gian rừng núi hùng vĩ, bất ngờ một con hổ dữ từ trên ghềnh đá lao tới, vồ thẳng vào ông. Trận chiến giữa người và mãnh thú diễn ra khốc liệt giữa tiếng gầm vang động của núi rừng, giữa tiếng thác đổ và sự sống mỏng manh trước móng vuốt của tử thần.
Ngay khoảnh khắc nguy nan nhất, từ phía mỏm đá cao, một thiếu nữ xinh đẹp tay cầm ngọn thương dài, dũng mãnh lao xuống tiếp ứng. Với võ nghệ xuất chúng và khí phách hiên ngang, cô gái phối hợp cùng Trần Quang Diệu đánh bại hổ dữ. Người thiếu nữ ấy chính là Bùi Thị Xuân, một biểu tượng của nữ quyền võ học đất Tây Sơn, nổi tiếng với sức mạnh phi thường và lòng dũng cảm hiếm thấy.
Sau trận đánh dữ dội, giữa đôi mắt bừng sáng và hơi thở gấp gáp, hai con người chưa từng quen biết nhìn nhau như thể đã nhận ra người đồng hành lý tưởng trên con đường đại nghĩa. Cuộc gặp gỡ kỳ lạ bên suối đá Hầm Hô trở thành khởi nguồn cho một mối tình hào hùng, gắn bó hai danh tướng suốt hành trình phò tá nhà Tây Sơn, viết nên khúc bi tráng nhất trong lịch sử võ tướng Việt Nam.
Hầm Hô, với địa hình hiểm trở gồm nhiều khe đá, hang động và rừng rậm, từng là căn cứ bí mật của nghĩa quân Tây Sơn trong giai đoạn chuẩn bị khởi nghĩa. Đây là nơi tập kết quân lương, rèn luyện võ nghệ và chế tạo vũ khí, góp phần quan trọng vào thành công của cuộc khởi nghĩa Tây Sơn cuối thế kỷ XVIII. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Hầm Hô tiếp tục được sử dụng làm căn cứ cách mạng, do Anh hùng Mai Xuân Thưởng chỉ huy, hỗ trợ phong trào Cần Vương tại Bình Định.
Du khách đi thuyền tham quan Khu du lịch Hầm Hô - Ảnh Xuân HiềnĐứng trước vẻ đẹp tĩnh lặng mà hùng vĩ của Hầm Hô, người ta không chỉ thấy một thắng cảnh tự nhiên tuyệt mỹ, mà còn chạm đến tầng sâu linh thiêng của lịch sử dân tộc. Những phiến đá từng chứng kiến bước chân nghĩa sĩ, những dòng nước từng soi bóng tình yêu tráng lệ của đôi vợ chồng tướng lĩnh Bùi Thị Xuân - Trần Quang Diệu, vẫn còn đó như một chứng nhân không lời cho bao dâu bể thời gian. Hầm Hô không chỉ là một “viên ngọc xanh” giữa miền đất võ, mà còn là biểu tượng sống động cho khát vọng độc lập, tình yêu nước nồng nàn và nghĩa khí của con người Bình Định.
Trong xu hướng phát triển du lịch gắn với văn hóa - lịch sử, Hầm Hô chính là lời mời gọi cho những ai muốn tìm về cội nguồn, để thấy trong mỗi dòng chảy, mỗi phiến đá, vẫn còn âm vang tiếng hô hào của nghĩa quân Tây Sơn, tiếng thở của tình yêu son sắt giữa thời loạn lạc, và tiếng vọng từ thiên nhiên hòa quyện cùng hồn thiêng sông núi. Đó là nơi mà lịch sử và huyền thoại, hiện thực và giấc mơ, quá khứ và tương lai gặp nhau trong một bản hòa ca sâu lắng mang tên Hầm Hô.