Mô hình tự quản công trình nước sạch nông thôn
Huyện Tiên Yên có phần lớn diện tích là đồi núi, nhiều địa bàn vùng sâu, vùng xa, dân cư phân tán. Việc đưa nước sạch đến với người dân, đặc biệt là vùng đồng DTTS, miền núi không dễ thực hiện. Trước đây, vào mùa khô, khe suối cạn, người dân ở những thôn bản như Khe Lặc (Đại Dực); Khe San (Phong Dụ) phải đi rất xa để gánh nước về sinh hoạt hoặc phải dẫn nước từ các khe suối trên đồi cao về nhà...
Từ thực tế này, huyện đã đầu tư những công trình nước sinh hoạt tự chảy tại các địa bàn vùng cao, với đầy đủ các hạng mục đảm bảo xử lý theo quy chuẩn kỹ thuật về nước sinh hoạt. Những công trình này được chính người dân trong thôn trực tiếp quản lý, khai thác, sử dụng, bảo vệ thông qua một Ban quản lý gồm: trưởng thôn, đại diện các đoàn thể, hộ dân và được duy trì hoạt động theo quy chế được UBND xã ban hành và thông qua.
Anh Nình A Vày, một người dân thôn Khe Lặc phấn khởi chia sẻ: “Trước đây, gia đình tôi phải dẫn nước chưa được qua xử lý từ các con suối trên đầu nguồn để sinh hoạt. Chất lượng nước không bảo đảm, nhất là nước bị đục vào những ngày mưa. Nhưng từ khi có công trình nước sinh hoạt tập trung, nước sinh hoạt về đến tận nhà. Khỏi phải nói, bà con chúng tôi mừng lắm ấy chứ!”.
Giống như người dân ở xã Đại Dực, bà con ở xã Phong Dụ giờ đây cũng được thụ hưởng nước sạch về đến tận nhà nhờ công trình đập dâng nước Khe San và hệ thống đường ống, bể chứa, bể lọc cấp nước sinh hoạt tại xã Phong Dụ. Công trình này có tổng vốn đầu tư hơn 30 tỷ đồng, từ nguồn ngân sách tỉnh hỗ trợ xây dựng nông thôn mới, do UBND huyện Tiên Yên làm chủ đầu tư.
Ông Nguyễn Chí Dũng, Phó Chủ tịch UBND xã Phong Dụ cho biết: “Xã đã thành lập tổ tự quản để vận hành công trình nước sạch. Đồng thời, xây dựng quy chế quản lý, thông qua mức đóng góp đảm bảo công tác vận hành 3.000 đồng/m3 để có nguồn kinh phí bảo dưỡng định kỳ và sửa chữa những hư hỏng nhỏ trong quá trình sử dụng, đảm bảo hiệu quả sau đầu tư của công trình”.
Tại huyện vùng cao Ba Chẽ, hàng loạt công trình cấp nước sạch đã được đưa vào sử dụng như: Nâng cấp nước sinh hoạt Khe Lầm phục vụ các thôn: Khe Mằn, Làng Cổng, Nà Bắp, Lang Cang (xã Đồn Đạc); hệ thống trạm xử lý nước sạch Hồ chứa nước Khe Mười phục vụ nước sinh hoạt các xã: Đồn Đạc, Nam Sơn và Cụm công nghiệp Nam Sơn.
Các địa phương cũng huy động sự tham gia tích cực của người dân đóng góp để xây dựng các công trình nước sinh hoạt. Điển hình, xã Quảng An (huyện Đầm Hà) có 1.427 hộ dân, trong đó hơn 74% dân số là đồng bào DTTS. Tại đây, người dân đã tích cực quyên góp xây dựng công trình nước sinh hoạt. Đến nay, xã có 7 công trình cấp nước tập trung, trong đó chỉ có 3 công trình do nhà nước đầu tư; 4 công trình do người dân đóng góp kinh phí.
Nâng cao tỷ lệ dùng nước sạch nông thôn
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh có 278 công trình, hệ thống công trình phục vụ cấp nước khu vực nông thôn, trong đó có 271 công trình độc lập, 7 hệ thống công trình được đấu nối từ những công trình hiện có.
Về mô hình quản lý, trên địa bàn tỉnh đang quản lý các công trình cấp nước tập trung theo 4 mô hình chính: Cơ quan nhà nước (UBND cấp xã); đơn vị sự nghiệp công lập; doanh nghiệp nhà nước; tư nhân quản lý.
Tuy nhiên, tại các công trình cấp nước có quy mô lớn, lao động làm việc tại các trạm cấp nước cơ bản là lao động phổ thông, trong khi việc quản lý, khai thác đòi hỏi yêu cầu chuyên môn, nghiệp vụ cao. Đồng thời, mức giá bán nước khu vực nông thôn còn thấp, chi phí quản lý vận hành lớn nên nguồn kinh phí để thực hiện công tác duy tu, sửa chữa, cải tạo nâng cấp còn hạn chế.
Đối với khu vực có khả năng đấu nối cao, dân cư đông, sử dụng nhiều, khả năng chi trả tốt, công trình cấp nước tập trung nên do các đơn vị doanh nghiệp quản lý. Còn đối với khu vực nông thôn, đồng bào DTTS, tỷ lệ sử dụng thấp, dân cư thưa, khả năng chi trả thấp, qua kinh nghiệm các tổ tự quản quản công trình nước sinh hoạt như Tiên Yên là hiệu quả”,
ông Nguyễn Minh Sơn Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Còn đối với các công trình cấp nước quy mô nhỏ, hầu hết các công trình này không thu phí sử dụng nước nên việc duy tu, bảo dưỡng công trình còn gặp nhiều khó khăn; tỷ lệ đấu nối sử dụng nước sạch từ các công trình cấp nước tập trung tại một số địa phương còn thấp, do nhiều địa phương người dân còn quen dùng nước sông, nước giếng khoan...
Với mục tiêu phấn đấu đến năm 2025, 80% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch, tiêu chuẩn cấp nước tối thiểu 60 lít/người/ngày đêm, tỉnh Quảng Ninh đã giao Sở Xây dựng xây dựng Đề án “Cấp nước sạch nông thôn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025”, trình UBND tỉnh xem xét, phê duyệt. Đề án đưa ra nhiều phương án, với những giải pháp cụ thể nhằm quản lý, vận hành, khai thác các công trình nước sạch nông thôn phù hợp, người dân được thụ hưởng với giá rẻ nhất.
Theo đó, phân thành 3 vùng: Vùng nước sạch đô thị, các đô thị phân tán; cấp nước sạch nông thôn vùng thấp dân cư tập trung; cấp nước nông thôn miền núi, biên giới, hải đảo, ven biển thường xuyên bị xâm nhập mặn và không có nguồn nước tại chỗ.
Ông Nguyễn Mạnh Tuấn, Giám đốc Sở Xây dựng tỉnh Quảng Ninh, cho biết: Đề án cấp nước sạch nông thôn tỉnh Quảng Ninh đến năm 2025 đã khảo sát thực tế, thí nghiệm mẫu nước, đánh giá thực trạng hệ thống cấp nước nông thôn tại các huyện, thị xã, thành phố và các công trình, quá trình tổng hợp đánh giá nhu cầu sử dụng nước, đề xuất phương án cấp nước phù hợp với thực tế địa phương. Từ đó, đề xuất giải pháp xây dựng chính sách về hỗ trợ đầu tư xây dựng mới công trình cấp nước; hỗ trợ trực tiếp đối với các hộ dân nông thôn; xây dựng các mô hình, công trình cấp nước cho từng vùng, từng nguồn nước, đối tượng sử dụng.
Trong thời gian tới, các địa phương cần tuyên truyền, vận động người dân bảo vệ rừng đầu nguồn; hỗ trợ trồng rừng gỗ lớn tại các khu vực rừng đầu nguồn, các công trình thủy lợi để duy trì nguồn sinh thủy; nghiên cứu, khai thác công trình cấp nước sạch nông thôn tập trung, đảm bảo phù hợp với điều kiện đặc thù của địa phương, tiến tới xây dựng giá sản phẩm nước sạch nông thôn phù hợp với thực tế.
“Đối với khu vực có khả năng đấu nối cao, dân cư đông, sử dụng nhiều, khả năng chi trả tốt, công trình cấp nước tập trung nên do các đơn vị doanh nghiệp quản lý. Còn đối với khu vực nông thôn, đồng bào DTTS, tỷ lệ sử dụng thấp, dân cư thưa, khả năng chi trả thấp, qua kinh nghiệm các tổ tự quản quản công trình nước sinh hoạt như Tiên Yên là hiệu quả”, ông Nguyễn Minh Sơn, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn nhìn nhận.