Để được Cấp sắc, người thụ lễ, thường là nam giới, phải có quá trình học chữ Hán nôm, biết đọc, viết thành thạo, có thời gian phụ giúp thầy, hiểu và thực hành được một số nghi lễ truyền thống của dân tộc mình. Người được cấp sắc có thể là người nối nghiệp gia đình, dòng họ; người có “căn”; những người do mong muốn được hành nghề và tham gia vào công việc của cộng đồng. Khi đạt đến một trình độ nhất định, được cộng đồng tín nhiệm, thì xin thầy, xin thần linh tổ chức nghi lễ “Cấp sắc” để chính thức hành nghề.
Đàn lễ được dựng tại khoảng sân ngay trước cửa nhà, khung tre hoặc sắt phủ bạt. Cổng đàn lễ dựng trước cửa nhà, khung bằng tre, nứa bao bằng giấy đỏ, trên cổng đề dòng chữ Hán “Tống chân nha môn”, hai bên viết cặp câu đối bằng chữ Hán mừng đón thần thánh giáng đàn. Bàn đặt sớ điệp, 3 bát hương, 5 chén rượu, 2 chén nước, 2 đĩa oản, 2 bát thịt.
Ban thờ Tam Thanh (Sam sênh) trên có đại tự, hai bên có câu đối, ở giữa treo 5 bức tranh: Hai bên là Lý Tiên Nương (Lý sen nhóng), giữa và bên phải là Ngọc thanh cung, bên trái là Thượng thanh cung. Trên mặt bàn phía sát vách là lễ vật, gầm bàn nhốt 1 con gà trống (gà giữ đàn hay chóng thán cay). Bên trái bàn có rá thóc cắm 4 lá cờ đuôi nheo chiêu binh mã và 1 lá cờ hình vuông, trên cờ ghi bằng chữ nôm Sán Dìu: Mệnh lệnh và chức lệnh, tên, tuổi của người được cấp sắc. Hai bên ban thờ Tam Thanh treo bộ tranh Thập điện Diêm vương.
Trước khi hành lễ, thầy cúng thực hiện nghi thức tẩy uế, trấn yểm đàn lễ, thỉnh cầu các vị thần thánh, dâng rượu và lễ vật.
Nghi lễ cấp sắc gồm 15 bước. Nghi lễ chiêu binh thiên thánh do 2 thầy cúng thỉnh thiên binh vạn mã, thiên tướng, thần thánh, sư phụ về dự lễ với sự trợ giúp của 6 người phụ lễ bằng các điệu múa và thổi tù và như: Múa Hành quang (Háng cong), nghênh tiếp thần, có nhiều động tác mô phỏng các trò vui và lao động sản xuất như: Hoàng mẫu xây đập, đào kênh…
Tiếp đến là Nghi lễ dâng sớ tấu thánh, do 3 thầy cúng dâng sớ tấu trình nội dung cấp sắc với Ngọc hoàng đại đế. Nghi lễ trình lệnh bài, ấn của người thụ lễ do 2 thầy cúng dâng lệnh bài, ấn trình Tam Thanh cùng với lễ vật là 2 con lợn thịt, đầu phủ mỡ chài và cắm cờ đuôi nheo, tiền vàng, rượu...
Nghi lễ dâng và tấu sớ (thốc chệch sộ): Tại ban thờ Tam Thanh do 3 thầy cúng làm lễ, dâng sớ chính của nghi lễ để thỉnh Ngọc Hoàng, Đông Vương Công, mời các vị thần thánh về chứng kiến và mời các vị thầy có chức vị về truyền pháp. Sau khi đã mời được các vị thần thánh, người thụ lễ cầm lệnh bài, đứng ở giữa, các thầy phụ đeo cờ, nhảy kết giới (két cại) để mời gọi thần thánh đến đây dự tiệc, chứng giám và truyền phép cho đệ tử.
Nghi lễ múa cờ (sút khi hoi ngọc): Người cầm cờ, người cầm tù và nhảy múa theo lời cúng với các động tác phất cờ, tấu nhạc, sắp xếp âm binh, quân binh, thánh binh chuẩn bị xuất trận và hộ tống người thụ lễ đi tuần ải ngũ phương. Nghĩ lễ Đại kết giới, thầy cúng thực hiện các nghi thức đưa âm binh ra trình ngũ phương rồi đưa người thụ lễ đi tuần ải.
Nghi lễ tạo cầu tiếp thánh (Sao khéo chép sệnh): Để tiếp đón thần thánh về đón nhận người thụ lễ đến với cõi thiêng bằng cách bắc cầu (bênh khéo) nối bàn thờ Tam Thanh với bàn thờ của người thụ lễ. Hành quan tiếp sứ: Mở đường đón thánh về.
Nghi lễ đón bát tiên (Cheo bát sen): Thầy cúng khấn mời bát tiên về chứng nhận lễ thăng chức cho người thụ lễ, mở từng sớ đọc mời các vị về với sự trợ giúp của 2 thầy cúng múa dâng hương quanh bàn thờ bát tiên.
Nghi lễ trình bản sớ hợp đồng (Hap thống): Là sớ điệp cấp sắc, gồm 2 bản âm và dương được đóng dấu giáp lai: Sớ thầy truyền cho người thụ lễ (24 tờ điệp) và sớ thầy phong chức cho người thụ lễ (22 tờ). Mỗi loại sớ được 1 ông thầy đội trên đầu, tấu trình lên Ngọc Hoàng đại đế. Những tờ điệp âm đọc xong thì hóa ngay, tờ điệp dương đã được đóng dấu hợp đồng thì người thụ lễ giữ cẩn thận, đến khi qua đời đệ tử mang ra làm lễ và đốt theo.
Nghi lễ dâng khăn hồng (Cạ hống): Khăn được quàng lên vai người được dâng. Đầu tiên, người thụ lễ tạ ơn các thầy cấp pháp cho mình bằng việc dâng khăn hồng cho sư phụ, lần lượt là thầy bản sư, thầy gia bổ chức sư, thầy bảo quý, thầy chứng minh, thầy diễn đàn, thầy truyền phép, thầy kết quy tinh đẩu thể, cuối cùng là mẹ đẻ và các chị em gái của mẹ nhằm tạ ơn sinh thành, dưỡng dục.
Tiếp theo, các con cháu, các em dâng khăn cho người thụ lễ với ngụ ý chúc phúc cho Thầy được Cấp sắc; chúc cho Thầy có sức khỏe, tinh thông các pháp để giúp cho con cháu, cộng đồng dân tộc.
Nghi thức lập ngai quy (két quy tênh tói): các thầy tấu với thần thánh việc đưa người thụ lễ đi lấy nước tại một điểm đã chọn từ trước, mang theo lễ vật, vừa đi vừa đọc bài cúng qua đường, hết một bài lại đóng 3 đoạn tre xuống đường dùng để cắm hương, rót rượu và rót nước, bên cạnh cắm 1 cành cây tươi. Đến địa điểm lấy nước, thầy cúng bài trình thánh trên đường đi lấy nước, đồng thời, cũng tiến hành dâng lễ trình thủy thần xin được lấy nước.
Lấy được nước, khi quay về theo đường cũ, đến chỗ cắm cành cây tươi, thì thầy đạp đổ cành cây. Lấy nước về đến đàn lễ mang đặt trên bàn thờ Tam Thanh rồi tiến hành các thủ tục truyền phép, sau đó thực hiện nghi thức ngự thần quy cho người thụ lễ.
Người thụ lễ được các thầy truyền pháp, nhắc lại các quy tắc làm nghề, truyền pháp xong cho người thụ lễ ăn oản, uống rượu, ăn thịt… Kể từ đây, người thụ lễ được phép ăn, uống những thực phẩm, lương thực không thuộc đồ kiêng, cấm đối với người làm nghề.
Nghi lễ truyền tín hiệu của Thánh (Hám hong cộ phố): Để người thụ lễ sau này đi hành lễ thỉnh thánh đi theo phù trợ. Thầy cúng dùng phép thổi khói hương vào tai, miệng người thụ lễ, với ngụ ý tai nghe được, miệng sẽ nói theo lời của thánh sư, của sư phụ. Trong lúc truyền pháp tay hai người lồng vào nhau, có lúc dùng nắm tay chồng lên nhau tượng trưng cho việc truyền pháp và bắc cầu lên chức. Thầy làm nghi thức cấp thêm quân binh cho người thụ lễ, kết thức nghi thức Thầy trao lệnh bài cho người thụ lễ.
Nghi lễ cấp quân lương nuôi âm binh của người thụ lễ. Hai thầy cúng thỉnh âm binh, bàn giao lương thực và dặn dò phải phụ giúp, nghe lời người thụ lễ.
Nghi lễ tạ ơn Thánh (Seo sén) gồm 2 lễ vật, là 2 con lợn được làm sạch, mổ đôi, cắm 5 lá cờ đuôi nheo, 6 con gà, tiền vàng và các lễ vật khác. 4 thầy cúng khấn, nhảy múa tạ ơn Tam Thanh, Ngọc Hoàng, các Thánh sư... đã bảo trợ, chứng giám cho đàn lễ. Sớ, tiền vàng tiễn thánh được hóa để kết thúc toàn bộ nghi lễ cấp sắc. Sau đó, các thầy làm nghi thức trấn trạch để trả lại sự yên ổn cho gia đình. Tất cả câu đối và các hình cắt trang trí trong lễ cấp sắc đều đem hóa, còn lễ vật đem chia cho mọi người cùng thụ hưởng.
Khi thực hiện nghi lễ Cấp sắc, những điều răn, thề nguyện trước thần linh được người thụ lễ tự nguyện thực hiện trong suốt cuộc đời của họ. Hệ thống tranh thờ, đồ nghề hành lễ được cất giữ tại nơi trang trọng.
Có thể thấy, nghi lễ Cấp sắc của người Sán Dìu có vai trò quan trọng đối với đời sống tâm linh của cộng đồng người Sán Dìu, góp phần bảo lưu giá trị nghệ thuật như: Nghệ thuật múa, cắt dán giấy, trang trí đàn lễ, hệ thống tranh thờ dân gian. Từ năm 2018, lễ Cấp sắc của người Sán Dìu đã được đưa vào Danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.