Chức sắc lãnh đạo các tổ chức tôn giáo tặng hoa chúc mừng Bộ trưởng Bộ Dân tộc và Tôn giáo Đào Ngọc DungNhững ngày này, đồng bào, cử tri cả nước đặc biệt quan tâm dõi theo việc triển khai các Nghị quyết được Quốc hội khóa XV thông qua tại Kỳ họp bất thường lần thứ 9 (diễn ra từ ngày 12 đến ngày 19/02/2025); trong đó có công tác sắp xếp lại cơ cấu tổ chức của Chính phủ nhằm nâng cao hiệu năng, hiệu quả, hiệu lực của bộ máy theo Nghị quyết số 176/2025/QH15. Không ngoài kỳ vọng của đồng bào, cử tri cả nước, với tinh thần trách nhiệm cao nhất, chỉ trong thời gian ngắn (từ ngày 21/2 đến ngày 02/3), Chính phủ đã ban hành các Nghị định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của 14 Bộ và 3 cơ quan ngang Bộ thuộc Chính phủ nhiệm kỳ 2021 - 2026.
Trong các thành viên Chính phủ hiện nay, Bộ Dân tộc và Tôn giáo là Bộ được thành lập mới, trên cơ sở Ủy ban Dân tộc tiếp nhận chức năng quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo từ Bộ Nội vụ; chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Bộ được quy định tại Nghị định số 41/2025/NĐ-CP ngày 26/02/2025 của Chính phủ.
Ngày 01/3, Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập Bộ Dân tộc và Tôn giáo và các Quyết định về công tác cán bộ đã được tổ chức tại Hà Nội, chính thức đánh dấu bước phát triển mới trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực dân tộc và tôn giáo. Không chỉ có ý nghĩa về tinh gọn bộ máy mà với việc lĩnh vực dân tộc - tôn giáo “về chung một nhà” sẽ tăng cường hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trong quá trình xây dựng, thực thi chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.
Cùng với các chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội, Nhà nước ta đã bảo đảm sự đa dạng, bình đẳng tôn giáo; các tổ chức tôn giáo được tạo điều kiện hoạt động theo Hiến chương, Điều lệ và quy định pháp luật. Theo số liệu từ Ban Tôn giáo Chính phủ, Nhà nước đã công nhận và cấp đăng ký hoạt động cho 43 tổ chức thuộc 16 tôn giáo, với trên 26,5 triệu tín đồ (trong đó khoảng 3.025.174 tín đồ là người DTTS).
Bởi một lẽ, vấn đề dân tộc và tôn giáo có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, chi phối lẫn nhau. Trong lịch sử cũng như hiện tại, các tôn giáo có truyền thống gắn bó chặt chẽ và đồng hành với các dân tộc Việt Nam. Và thực tế là, ở vùng đồng bào DTTS, tôn giáo phát triển mạnh mẽ. Một thống kê của Ban Tôn giáo Chính phủ (Bộ Dân tộc và Tôn giáo) cho thấy, cả nước có khoảng 3.025.174 người thuộc 33 DTTS là các tín đồ tôn giáo; trong đó Phật giáo có 1.448.366 tín đồ, Công giáo có 548.130 tín đồ, Tin lành có 874.359 tín đồ; Islam giáo/Hồi giáo có 85.452 tín đồ, các tôn giáo khác có 69.592 tín đồ.
Nếu chia theo khu vực thì Tây Nguyên có hơn 55% người DTTS tại chỗ là tín đồ tôn giáo, chủ yếu là Công giáo và Tin lành; ở Tây Nam Bộ có 95% người Khmer theo Phật giáo Nam tông; ở miền núi phía Bắc có gần 30% đồng bào Mông theo đạo Tin Lành; ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ hơn 95% người Chăm theo đạo Bàlamôn và Hồi giáo,...
Thêm vào đó, đồng bào các DTTS có đời sống tín ngưỡng rất phong phú. Đa số đồng bào DTTS vẫn theo tín ngưỡng truyền thống, thờ cúng tổ tiên, thờ đa thần với quan niệm “vạn vật hữu linh” và các hình thái tôn giáo sơ khai; tín ngưỡng truyền thống có vai trò rất quan trọng, là một yếu tố củng cố sự cố kết cộng đồng, duy trì đạo đức và trật tự xã hội.
Cùng với việc bảo đảm, tạo điều kiện cho đồng bào DTTS tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật, Đảng, hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS được triển khai thường xuyên, liên tục trong suốt những năm qua đã góp phần nâng cao đời sống của đồng bào. Các chính sách dân tộc được triển khai theo địa bàn, ưu tiên những địa bàn đặc biệt khó khăn, không có sự phân biệt đối tượng thụ hưởng.
Cùng với việc bảo đảm, tạo điều kiện cho đồng bào DTTS tự do tín ngưỡng, tôn giáo theo quy định của pháp luật, Đảng, hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS được triển khai thường xuyên, liên tục trong suốt những năm qua đã góp phần nâng cao đời sống của đồng bàoChính điều đó đã củng cố niềm tin, tăng cường đoàn kết giữa đồng bào không có tín ngưỡng tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau; và đoàn kết giữa các đồng bào trong nội bộ mỗi tôn giáo vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây cũng là “đích” hướng tới của chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta.
Trong một sự tương đồng nhất định, trước đây, Ủy ban Dân tộc và Ban Tôn giáo Chính phủ (thuộc Bộ Nội vụ) đều có nhiệm vụ tham mưu cho Đảng, Nhà nước thực hiện công tác tuyên truyền; tham mưu, xây dựng và triển khai chính sách đầu tư, hỗ trợ, giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống kinh tế, văn hóa, tinh thần của đồng bào DTTS và tín đồ tôn giáo, thúc đẩy tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc. Và với nỗ lực cao nhất, trong suốt quá trình xây dựng và phát triển, lĩnh vực công tác dân tộc và công tác tôn giáo đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đạt được nhiều thành tựu đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước.
Nay, với sự ra đời của Bộ Dân tộc và Tôn giáo đánh dấu một giai đoạn mới trong việc thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác dân tộc và công tác tôn giáo. Từ đây, hai lĩnh vực có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại, chi phối lẫn nhau đã được tập trung về một đầu mối, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thực hiện các chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng và Nhà nước ta.