Lớp học nghèo trên núi cao
Trên sườn dốc núi cao chênh vênh, những phòng học đơn sơ, tuềnh toàng tranh tre nứa lá. Học sinh các lớp mầm non và tiểu học, là con em bà con dân tộc ở điểm trường Tắc Pỏ, xã Trà Linh, huyện Nam Trà My (Quảng Nam), nhỏ thó và đen đúa nhưng đôi mắt vẫn ánh lên vẻ ngây thơ và niềm mơ ước. Thấy chúng tôi vào lớp học, những đứa trẻ ở bậc tiểu học nhanh nhảu đứng dậy, khoanh tay chào khách lạ. Chia sẻ về nghề, cô giáo Trà Thị Thu bảo, “cất công lên được đến đây là cả một “kỳ tích đời người”.
Những ngày đầu tiên cô khăn gói lên đây thắp sáng ước mơ con chữ, bà con trên những nóc cao mây mù này chẳng thể nào tưởng tượng nổi sẽ có một ngày, những đứa con sớm tối lên nương, lên rẫy lại được những thầy cô giáo người dưới xuôi dạy đánh vần, tập viết, dạy chữ Bác Hồ.
Trên sườn dốc chênh vênh, 3 phòng học đơn sơ, tuềnh toàng tranh tre nứa lá, là nơi các em ở điểm trường này ngày ngày cùng nhau học bài. Dù tiếng Kinh còn lõm bõm, nhưng các em luôn miệng “Thưa cô! Thưa thầy!” khiến những thầy cô trẻ tuổi chưa một lần xa nhà cũng phải nao lòng.
Nói là trường cho sang chứ thực chất là lớp học dựng bằng ván gỗ đơn sơ, mái lợp bằng tôn, nằm chênh vênh trên một quả đồi cao. Điểm trường nằm xa trung tâm xã, chỉ có thể đi bộ đường mòn trong rừng núi mất hơn 2 giờ. Phụ trách lớp là 2 cô giáo trẻ có thâm niên cắm bản để gieo chữ trên rẻo cao cho học sinh đồng bào Ca Dong.
Cô giáo Thu chia sẻ, ở điểm trường này, cô và cô giáo Úi cùng phụ trách. Cô Úi từ Nam Giang (Quảng Nam) tới đây hơn năm. Còn cô công tác ở đây 5 năm. “Ở đây có 10 điểm trường nữa như thế và thậm chí khó khăn hơn. Có điểm trường đi bộ 7 - 8 tiếng mới tới. Nhiều lúc cũng buồn, nhưng nhìn những đứa trẻ vui đùa, chăm chút viết chính tả, say mê làm con tính, lại không nỡ về lại dưới xuôi nữa!”, cô giáo Thu bộc bạch.
Hơn 5 năm ở điểm trường này, cô giáo Thu ban ngày dạy các em trên lớp, tối lại phải ru các em ngủ cho vơi bớt nỗi nhớ nhà. Nỗi nhớ của cô và cả nỗi nhớ của trò.
Dâng tuổi thanh xuân nơi miền hoang vắng
Trò chuyện với chúng tôi, thầy Hiệu trưởng Lê Huy Phương kể, sống trên núi, có khi nửa năm hoặc cả năm trời mới biết đến mùi cá biển, miếng thịt heo, thịt bò. Thông tin liên lạc, một nhu cầu thực tế mà thời nay ai cũng cần, nhưng ở vùng núi này xem là chuyện hiếm hoi.
Buổi tối đến, các cô giáo chuyện trò với nhau, nói về manh áo rách, nói về đồ ăn thức uống cho mùa mưa tới, nói về những chuyện riêng vốn rất thầm kín của phụ nữ. Và thể nào cũng cứ tới giữa chừng câu chuyện, thì lại có người nhớ nhà... Rồi cứ thế từng người một lần lượt lặng lẽ theo đuổi những cảm xúc riêng của mình, có khi lại lật giở ra những trang giáo án để vùi tâm tình vào đó cho đỡ nhớ.
Có thể chẳng có một từ ngữ nào nói hết được những khó khăn nơi đây, nhưng lúc nào cũng thế, tấm lòng của những thầy cô đều hướng về học sinh, những đứa trẻ vùng cao chân lấm tay bùn. Từng lứa học trò lớn lên, biết còn mấy đứa sẽ được đi học tiếp cấp 2, rồi cấp 3. Rồi sẽ còn mấy đứa lặn lội hơn 40km để ra trung tâm huyện trọ học để tiếp tục nuôi ước mơ con chữ để về xây dựng nóc làng nơi đây. Dẫu sao vẫn cứ phải hy vọng!
Đêm trên đỉnh Ngọc Linh, cái lạnh và cái buồn cứ bủa vây trong cơn mưa rừng rả rích. Một giai điệu boléro buồn buồn từ chiếc đài đã tróc hết lớp mạ bên ngoài đang hát những bản tình ca về quê hương. Tôi hiểu những cô giáo còn quá trẻ ở nơi đây phải gắng gượng lắm để vượt qua được hết nỗi buồn, sự thiếu thốn và cả những mong ước rất giản dị của mình. Bởi nếu không có được sự dũng cảm, có lẽ chẳng còn ai có thể trụ nổi được đến tận bây giờ, như cô giáo Thu đã ở điểm trường này 5 năm qua. Tất cả họ xứng đáng được vinh danh.