Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản được Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét tại phiên họp thứ 31 diễn ra vào sáng 14/3.
Tại Kỳ họp thứ 6 (tháng 10-11/2023), Quốc hội đã xem xét, cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản. Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban Kinh tế đã chủ trì phối hợp với Bộ Tư pháp (Cơ quan chủ trì soạn thảo) và Thường trực Ủy ban Pháp luật nghiên cứu tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật.
Báo cáo một số vấn đề lớn của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Minh Sơn cho biết, về phạm vi sửa đổi Luật, dự thảo Luật đã bám sát 3 nhóm chính sách đã được Quốc hội thông qua khi đề nghị bổ sung dự án Luật này vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2023, 2024.
Đồng thời, qua tổng kết 5 năm thi hành Luật Đấu giá tài sản cho thấy, các quy định của Luật hiện hành cơ bản vẫn đang phát huy hiệu quả, tính khả thi trên thực tiễn. Theo đó, dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 đã sửa đổi, bổ sung 25 điều, khoản của Luật hiện hành và bổ sung 1 điều mới; các điều, khoản, điểm khác chỉ sửa đổi, bổ sung mang tính kỹ thuật, thay thế từ ngữ, sửa đổi, bổ sung để phù hợp với việc trích dẫn điều, khoản đã được sửa đổi, bổ sung.
Dự thảo Luật sau khi được tiếp thu, chỉnh lý đã sửa đổi, bổ sung 42 điều, khoản của Luật hiện hành; tăng 16 điều, khoản so với dự thảo Luật trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6 nhưng chủ yếu là sửa về mặt kỹ thuật lập pháp, không phát sinh nhiều chính sách mới. Do đó, việc xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản là phù hợp với phạm vi sửa đổi.
Về tài sản đấu giá (Điều 4), Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, Luật hiện hành và dự thảo Luật đang quy định theo hướng liệt kê các loại tài sản mà theo pháp luật chuyên ngành quy định phải bán thông qua đấu giá và áp dụng thống nhất trình tự, thủ tục đấu giá cho các loại tài sản này.
Bên cạnh đó, pháp luật chuyên ngành cũng quy định tài sản nào, giá trị như thế nào thì bán thông qua đấu giá, tài sản nào, giá trị như thế nào thì không bán thông qua đấu giá, tài sản nào thì đấu giá quyền sử dụng (quyền cho thuê), tài sản nào thì đấu giá quyền sở hữu.
Đồng thời, Luật hiện hành và dự thảo Luật đều đã có quy định chung mang tính khái quát đối với tài sản khác mà pháp luật chuyên ngành quy định phải bán thông qua đấu giá để bảo đảm tính bao quát, đầy đủ và dự liệu trước các tài sản có thể phát sinh trong tương lai.
Về các hành vi bị nghiêm cấm (Điều 9), Thường trực Ủy ban Kinh tế xin tiếp thu bỏ cụm từ "nhằm mục đích trục lợi" tại điểm đ1 khoản 1 Điều 9 đối với hành vi để lộ thông tin về người đăng ký tham gia đấu giá để bảo đảm phù hợp với thực tiễn và tính khả thi của quy định này.
Về điều kiện của người được ủy quyền tham gia đấu giá, Thường trực Ủy ban Kinh tế cho rằng, việc ủy quyền tham gia đấu giá và điều kiện của người được ủy quyền tham gia đấu giá được thực hiện theo quy định pháp luật về dân sự.
Dự thảo Luật chỉ quy định việc nghiêm cấm nhận ủy quyền tham gia cuộc đấu giá "để trả giá" cho người tham gia đấu giá khác đối với tài sản mà người nhận ủy quyền cũng là người tham gia đấu giá tài sản đó nhằm bảo đảm tính minh bạch, tránh tình trạng thông đồng, móc nối, dìm giá; trường hợp nhận ủy quyền tham gia đấu giá mà mình cũng là người tham gia đấu giá tài sản đó nhưng không nhằm mục đích "để trả giá" thì không bị cấm.
Tuy nhiên, đối với trường hợp nhận ủy quyền tham gia đấu giá cho từ hai người tham gia đấu giá trở lên đối với cùng một tài sản, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp thu bỏ cụm từ "để trả giá" tại điểm d1 khoản 5 Điều 9 nhằm mở rộng hành vi bị nghiêm cấm mà không cần xét đến mục đích "để trả giá" như đối với trường hợp nhận ủy quyền tham gia cuộc đấu giá để trả giá cho người tham gia đấu giá khác mà người nhận ủy quyền cũng là người tham gia đấu giá tài sản đó.
Về chế tài xử lý vi phạm đối với người trúng đấu giá không nộp tiền trúng đấu giá (Điều 70), Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Nguyễn Minh Sơn cho hay, Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp thu theo hướng bổ sung trường hợp người trúng đấu giá quyền sử dụng đất đối với trường hợp giao đất, cho thuê đất để thực hiện dự án đầu tư, quyền khai thác khoáng sản mà vi phạm nghĩa vụ thanh toán tiền trúng đấu giá dẫn đến quyết định công nhận kết quả đấu giá bị huỷ thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm bị cấm tham gia đấu giá đối với loại tài sản đó trong thời hạn từ 6 tháng đến 5 năm trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo quy định tại Điều 87 của Luật Đấu thầu năm 2023.
Đây là những tài sản đặc thù, có giá trị lớn, ảnh hưởng lớn đến thị trường bất động sản, chứng khoán, giá cả vật liệu xây dựng… Do đó, việc bổ sung quy định cấm người trúng đấu giá đối với những tài sản này tham gia đấu giá trong thời hạn nhất định tùy theo tính chất, mức độ vi phạm nhằm ngăn chặn các hành vi tiêu cực, gây lũng đoạn thị trường, ngăn chặn tình trạng bỏ cọc hoặc thổi phồng giá trị tài sản để trục lợi trong đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, tại Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ chưa có quy định về xử phạt vi phạm hành chính đối với hành vi bỏ cọc, vì vậy đề nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định số 82/2020/NĐ-CP hoặc sửa đổi, bổ sung tại dự thảo Luật Đấu giá tài sản về chế tài xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi bỏ cọc với mức xử phạt phù hợp, đủ sức răn đe và ngăn ngừa, tương tự như quy định của Luật Chứng khoán; đồng thời, nếu xác định được gây mất an ninh, trật tự, gây thiệt hại về người và tài sản thì cần thiết phải bổ sung cả chế tài hình sự.
Về đấu giá trực tuyến và áp dụng hình thức đấu giá trực tuyến đối với tài sản công (Điều 43a), Thường trực Ủy ban Kinh tế đề nghị tiếp thu bổ sung Điều 43a tại dự thảo Luật về đấu giá trực tuyến trên cơ sở luật hóa các quy định về hình thức đấu giá trực tuyến phù hợp với thực tiễn tại Nghị định số 47/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2017/NĐ-CP của Chính phủ; đồng thời quy định đối với trường hợp đấu giá tài sản công được thực hiện bằng hình thức đấu giá trực tuyến thì phải sử dụng Cổng Đấu giá tài sản quốc gia do Bộ Tư pháp xây dựng, quản lý và vận hành nhằm một mặt đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, thúc đẩy chuyển đổi số trong hoạt động đấu giá, bảo đảm an toàn, an ninh mạng; mặt khác đây được xem là giải pháp nhằm hạn chế tối đa tình trạng thông đồng, dìm giá, tiêu cực, thất thoát tài sản nhà nước trong hoạt động đấu giá tài sản.