Theo đó, về đánh giá tình hình, Nghị quyết nêu: Sau hơn 5 năm thực hiện Nghị quyết số 03-NQ/TU, ngày 1/7/2016 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; được sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương, sự quyết liệt trong chỉ đạo, điều hành của các cấp ủy đảng, chính quyền cùng với sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc miền núi, KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi tỉnh đạt được nhiều kết quả hết sức quan trọng. Kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật được quan tâm đầu tư đồng bộ, đời sống vật chất, tinh thần của đồng bào được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo giảm; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt kết quả quan trọng bước đầu; công tác giáo dục, đào tạo và dạy nghề ở vùng đồng bào vùng DTTS và miền núi được quan tâm triển khai thực hiện; chăm sóc sức khỏe nhân dân được chú trọng; công tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của đồng bào các dân tộc thiểu số đạt được kết quả rõ nét; quốc phòng - an ninh được củng cố và tăng cường, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn một số hạn chế. Đó là, ở vùng miền núi sản xuất hàng hóa, dịch vụ chậm phát triển so với yêu cầu, thu hút đầu tư còn nhiều khó khăn; kết cấu hạ tầng KT-XH tuy đã được quan tâm đầu tư, nhưng vẫn chưa đáp ứng nhu cầu; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo, tái nghèo còn cao; văn hóa, xã hội đã được quan tâm thực hiện nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, nhất là giáo dục và đào tạo; khả năng tiếp cận dịch vụ xã hội của người dân trong vùng còn thấp; hủ tục, mê tín dị đoan ở một số nơi chậm được khắc phục; an ninh trật tự còn tiềm ẩn những yếu tố phức tạp; công tác chăm sóc sức khỏe có chuyển biến tích cực nhưng chưa đáp ứng yêu cầu; công tác quản lý, bảo vệ rừng tuy có chuyển biến, nhưng tình trạng khai thác, vận chuyển, chế biến lâm sản trái phép vẫn còn xảy ra.
Về quan điểm, mục tiêu phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030, Nghị quyết xác định:
Về quan điểm: Phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTSvà miền núi đặt trong tổng thể phát triển KT-XH của tỉnh, xác định đây là nhiệm vụ chính trị quan trọng và thường xuyên của cả hệ thống chính trị. Đầu tư phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi là đầu tư cho phát triển bền vững, gắn với giải quyết tốt vấn đề an sinh xã hội, nâng cao dân trí và chất lượng nguồn nhân lực nhất là cán bộ DTTS, đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới; cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của Nhân dân, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc và giảm nghèo bền vững, góp phần quan trọng thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Về mục tiêu: Phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi theo hướng bền vững, gắn phát triển kinh tế với giải quyết tốt các vấn đề xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, đa dạng sinh học; nâng cao thu nhập cho người dân. Tạo sự chuyển biến căn bản về phát triển KT-XH, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc, xây dựng nếp sống văn minh, xóa bỏ các tập quán lạc hậu. Củng cố vững chắc quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội; xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đồng thời từng bước thu hẹp khoảng cách với các vùng khác trên địa bàn tỉnh; phát triển lấy con người làm trung tâm, nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân vùng đồng bào DTTSvà miền núi.
Một số chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2025
Về kinh tế: Tiếp tục củng cố các mô hình kinh tế tập thể, chú trọng phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác gắn với doanh nghiệp sản xuất - chế biến tiêu thụ sản phẩm cả về quy mô, chất lượng hoạt động; phấn đấu trong 5 năm tới mỗi huyện thành lập mới ít nhất 1 đơn vị hợp tác xã sản xuất, kinh doanh, dịch vụ tổng tổng hợp tại xã có đông đồng bào DTTS sinh sống; mỗi xã vùng đồng bào DTTS và miền núi thành lập mới ít nhất 2 tổ hợp tác.
Đến năm 2025, giảm 50% xã, thôn đặc biệt khó khăn; thu nhập bình quân đầu người tăng 2 lần so với năm 2020; giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân trên 3%/năm.
Về xã hội: 100% xã có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; 100% số trường, lớp học và trạm y tế được xây dựng kiên cố.
Củng cố, phát triển mạng lưới y tế để đồng bào DTTS được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe hiện đại; 98% đồng bào DTTS tham gia bảo hiểm y tế. Trên 80% phụ nữ có thai được khám thai định kỳ, sinh con ở cơ sở y tế hoặc có sự trợ giúp của cán bộ y tế; giảm tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng thể nhẹ cân xuống dưới 15%; tỷ lệ học sinh học mẫu giáo 5 tuổi đến trường trên 98 %, học sinh trong độ tuổi học tiểu học đến trường đạt 97%, trung học cơ sở 95%, trung học phổ thông 60%; người từ 15 tuổi trở lên đọc thông, viết thạo tiếng phổ thông 90%; 100% đồng bào DTTS được xem truyền hình và nghe đài phát thanh.
Có 50% lao động trong độ tuổi được đào tạo nghề phù hợp với nhu cầu, điều kiện của người DTTS; giải quyết việc làm trên 18.000 người.
Bảo tồn và phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào các dân tộc; 80% thôn có nhà sinh hoạt cộng đồng; 50% thôn có đội văn hóa, văn nghệ (câu lạc bộ) truyền thống hoạt động thường xuyên, có chất lượng.
Hoàn thành cơ bản công tác định canh, định cư; sắp xếp, bố trí, ổn định 90% hộ di cư không theo quy hoạch; quy hoạch sắp xếp, di dời định cư 60% số hộ DTTS đang cư trú phân tán, rải rác khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào.
Đến năm 2025 phấn đấu số hộ dân được sử dụng điện lưới quốc gia và các nguồn điện khác phù hợp đạt 99%; tỷ lệ đồng bào DTTS được sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh đạt 98%; tỷ lệ che phủ rừng vùng đồng bào DTTS và miền núi đạt 77%.
Định hướng mục tiêu đến năm 2030:
Thu nhập bình quân của người DTTS bằng 1/2 bình quân chung của cả tỉnh; giảm hộ nghèo xuống dưới 10%. Cơ bản không còn các xã, thôn đặc biệt khó khăn; 70% số xã vùng đồng bào DTTS và miền núi đạt chuẩn nông thôn mới.
Chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn vùng đồng bào DTTS, hằng năm thu hút ít nhất 3% lao động sang làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ. Đến 2030 có 40% lao động người DTTS biết làm các ngành, nghề: công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch, dịch vụ; phấn đấu có 80% số hộ nông dân người DTTS làm kinh tế nông - lâm nghiệp hàng hóa.
Xóa tình trạng nhà ở tạm, dột nát; ngăn chặn tình trạng suy thoái môi trường sinh thái; duy trì 77% tỷ lệ che phủ rừng; giải quyết căn bản tình trạng di cư không theo kế hoạch trong đồng bào DTTS. Quy hoạch sắp xếp, di dời, bố trí 100% hộ DTTS đang cư trú phân tán, rải rác trong rừng đặc dụng, các khu vực xa xôi, hẻo lánh, nơi có nguy cơ xảy ra lũ ống, lũ quét, sạt lở.
Trên 85% số xã, thôn vùng đồng bào DTTS và miền núi có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH và đời sống của người dân.
Cơ bản hoàn thành chỉ tiêu đã đề ra trong mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững đến năm 2030.
Từ mục tiêu trên, Nghị quyết đề ra 8 nhiệm vụ trọng tâm là: Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; bố trí, sắp xếp ổn định dân cư; phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, phát huy tiềm năng, thế mạnh của các vùng miền để sản xuất hàng hóa theo chuỗi giá trị; phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, du lịch và thương mại; tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi; phát triển giáo dục đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; phát triển giáo dục nghề nghiệp và giải quyết việc làm cho thanh niên vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em; đa dạng về hình thức truyền thông; xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ Người có uy tín và hiệu quả công tác vận động, phát huy vai trò của Người có uy tín trong vùng đồng bào DTTS trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo sự thống nhất về nhận thức tư tưởng, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của nhà nước trong cộng đồng đồng bào DTTS và miền núi; kịp thời biểu dương, tôn vinh các điển hình tiên tiến trong vùng đồng bào DTTS; từng bước ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ phát triển KT-XH, bảo đảm an ninh trật tự vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Nghị quyết này phổ biến đến các chi, đảng bộ./.