Trầy trật thực hiện tiêu chí “cứng”
Hạ tầng giao thông nông thôn là một trong những tiêu chí “cứng” trong xây dựng nông thôn mới. Ở vùng đồng bào DTTS và miền núi, việc hoàn thành tiêu chí giao thông vốn đã khó vì nguồn lực đầu tư hạn chế thì việc giữ tiêu chí càng khó hơn do địa hình, địa chất, lại thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai.
Tại thời điểm năm 2019, kết quả điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS lần thứ III cho thấy, phần lớn các đường giao thông từ trung tâm xã vùng DTTS đến trung tâm huyện đã được cứng hóa (trải nhựa hoặc bê tông), đạt tỷ lệ 95,2%; gần 90% các thôn thuộc vùng DTTS đã có đường giao thông đến trung tâm xã được cứng hóa.
Giai đoạn 2021 - 2025, tổng nguồn lực dự kiến thực hiện Chương trình MTQG 1719 ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên là trên 22,5 nghìn tỷ đồng, trong đó ngân sách Trung ương trên 20,5 nghìn tỷ đồng. Tính đến 30/9/2024, 16 tỉnh trong khu vực đã giải ngân 12,9 nghìn tỷ đồng, đạt 60,6% kế hoạch.
Tính từ thời điểm điều tra (tháng 4/2019) đến nay, vốn từ các chương trình, chính sách dân tộc được phân bổ để các địa phương vùng đồng bào DTTST và miền núi tiếp tục thực hiện cứng hóa giao thông nông thôn. Nhưng cứ “vá chỗ này lại thủng chỗ kia”, mục tiêu nâng tỷ lệ cứng hóa hệ thống giao thông ở địa bàn này cứ trầy trật như người leo núi mùa mưa.
Như khu vực miền Trung – Tây Nguyên, theo kết quả điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế – xã hội của 53 DTTS năm 2019, tỷ lệ cứng hóa đường giao thông từ thôn đến trung tâm xã đã đạt trên 90%. Nhưng hiện tỷ lệ này đã giảm xuống.
Số liệu tại Hội nghị đánh giá kết quả thực hiện Chương trình Mục tiêu Quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030 vùng miền Trung - Tây Nguyên tổ chức ngày 09/11/2024 cho thấy, tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa ở khu vực miền Trung – Tây Nguyên hiện đạt trung bình 88% (dự kiến hết năm 2025 sẽ tăng lên 89,9%).
Nhưng miền Trung – Tây Nguyên không phải là “vùng trũng” trong hạ tầng giao thông nông thôn của cả nước mà là Trung du miền núi phía Bắc. Tại thời điểm năm 2019, tỷ lệ cứng hóa đường giao thông từ thôn đến trung tâm xã ở khu vực này mới chí đạt 81,9%; trong đó 03 tỉnh có tỷ lệ thôn đã cứng hóa đường giao thông đến trung tâm xã thấp nhất cả nước là Cao Bằng, Điện Biên và Sơn La, đều dưới 70%.
Sau 05 tính từ thời điểm điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS lần thứ III, tỷ lệ cứng hóa đường giao thông từ thôn đến trung tâm xã ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc có tăng lên, nhưng không nhiều. Đơn cử tại Cao Bằng, hiện tỷ lệ cứng hóa đường xã, thôn xóm đã nâng lên được 74%.
Chủ động cân đối vốn đầu tư
Trong Chiến lược công tác dân tộc giai đoạn 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 tại Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 28/1/2022, Chính phủ đặt mục tiêu đến năm 2025, 100% xã vùng đồng bào DTTS và miền núi có đường ô tô đến trung tâm xã được rải nhựa hoặc bê tông; 70% thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa; đến năm 2030, trên 85% số xã, thôn có đủ cơ sở hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và đời sống của người dân.
Đối chiếu chỉ tiêu được đặt ra trong Nghị quyết số 10/NQ-CP với tỷ lệ thôn có đường ô tô đến trung tâm được cứng hóa ở một số vùng hiện nay đã cơ bản đạt và vượt. Đơn cử như khu vực miền Trung – Tây Nguyên, tính đến tháng 09/2024, tỷ lệ này đạt trung bình là 88%; dự kiến hết năm 2025 sẽ tăng lên 89,9%.
Về tỷ lệ xã có đường ô tô đến trung tâm xã được cứng hóa thì miền Trung – Tây Nguyên cũng đã cơ bản đạt. Tính đến tháng 09/2024, toàn khu vực có 98,9% số xã có đường ô tô đến trung tâm xã được cứng hóa; dự kiến “về đích” 100% vào cuối năm 2025.
Nhưng vẫn còn những “vùng trũng” về hạ tầng giao thông nông thôn, nhất là khu vực Trung du và miền núi phía Bắc. Với địa hình chủ yếu là đồi núi, chia cắt mạnh, lại thường xuyên chịu ảnh hưởng bởi thiên tai, đây là địa bàn rất khó hoàn thành mục tiêu về hạ tầng giao thông nông thôn được đặt ra trong Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 18/1/2022 của Chính phủ.
Theo ước tính của Bộ Giao thông Vận tải, bão số 3 và hoàn lưu sau bão đã gây thiệt hại khoảng 3.000 tỷ đồng cho hạ tầng giao thông các tỉnh phía Bắc. Trong đó có 3.924 vị trí bị thiệt hại do sạt lở đất, sụt nền đường, đứt đường và hư hỏng cầu cống...
Từ kết quả điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS lần thứ III và các dữ liệu chuyên ngành, từ năm 2019 đến nay, các địa phương khu vực Trung du và miền núi phía Bắc đã được bố trí các chương trình, dự án để đầu tư hạ tầng giao thông, nhất là giao thông nông thôn.
Trong đó, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 – 2030 (Chương trình MTQG 1719), khu vực Trung du và miền núi phía Bắc đã ưu tiên bố trí vốn đầu tư hạ tầng giao thông nông thôn.
Từ nguồn lực của Chương trình MTQG 1719 lồng ghép hiệu quả với vốn các chương trình, dự án khác, “huyết mạch” của nền kinh tế ở các địa bàn đặc biệt khó khăn trong khu vực đã từng bước được khơi thông.
Đơn cử tại Cao Bằng, theo số liệu của Sở Giao thông Vận tải tỉnh, từ năm 2021 đến hết tháng 6/2024, toàn tỉnh đã cứng hóa được 606,6km đường xã và 467,71km đường thôn, xóm, nội đồng.
Nhưng đây là số liệu tổng hợp đến hết tháng 6/2024. Sau thời điểm này, tỉnh Cao Bằng đã gánh chịu hậu quả nặng nề do thiên tai, bão lũ, nhất là trong và tháng 09/2024, với hoàn lưu bão số 3 (bão Yagi). Theo thống kê của Sở Giao thông Vận tải tỉnh Cao Bằng, riêng hoàn lưu bão số 3 đã làm trên 510 tuyến đường giao thông nông thôn bị sạt lở; 30 cầu bị hư hỏng.
Trước khi hoàn lưu bão số 3 gây ảnh hưởng nặng nề, cùng với các địa phương khác trên cả nước, tỉnh Cao Bằng đã tiến hành điều tra, thu thập thông tin thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS lần thứ IV – năm 2024 (từ 01/7 đến 15/8). Như vậy, dữ liệu từ cuộc điều tra này cơ bản đã không còn phản ánh đúng thực trạng hạ tầng giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh Cao Bằng nói riêng, nhiều địa phương thuộc vùng Trung du và miền núi phía Bắc nói chung.
Nhưng dữ liệu của cuộc điều tra được tổ chức trước thời điểm hoàn lưu bão số 3 gây thiệt hại nặng nề cho các tỉnh Trung du và miền núi phía Bắc cũng có giá trị tham chiếu quan trọng. Trên cơ sở thông tin đã thu thập được, các địa phương sẽ đối chiếu với thực trạng sau thiên tai để có bộ dữ liệu chính xác, phản ánh đúng tình hình hạ tầng giao thông nông thôn hiện nay.
Đây là cơ sở quan trọng để các địa phương cân đối nguồn vốn của các dự án thành phần trong 03 Chương trình MTQG, nhất là Chương trình MTQG 1719. Với cơ chế phân cấp, phân quyền một số dự án thành phần các Chương trình MTQG theo Nghị quyết số 111/2024/QH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các địa phương sẽ chủ động điều chỉnh tăng/giảm vốn các dự án thành phần phù hợp với tình hình thực tế của địa phương; trong đó, chủ động giảm những nội dung chính sách không còn đối tượng thụ hưởng để điều tiết vốn, tập trung thực hiện Dự án 4 thuộc Chương trình MTQG 1719 để đầu tư, sửa chưa hạ tầng giao thông nông thôn ở địa bàn đặc biệt khó khăn.
Trong cuộc điều tra thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS lần thứ IV - năm 2024, các điều tra viên thu thập thông tin tổng số km của tuyến đường chính từ trung tâm xã/phường/thị trấn đến trung tâm huyện/quận/thị xã/thành phố thuộc tỉnh tính đến ngày 01/7/2024 chia theo từng loại đường; số thôn (bản, làng, phum, sóc, xóm, ấp, khu dân cư, tổ dân phố và tương đương) chia theo loại đường chính đến trung tâm xã/phường/thị trấn tính đến ngày 01/7/2024.