Đảm bảo thu nhập cho người dân
Những năm qua, nhờ nguồn thu từ dịch vụ môi trường rừng, người dân đã có thể sống dựa vào rừng. Ông Nguyễn Văn Biển, Chi cục trưởng Chi cục Kiểm lâm tỉnh Lai Châu cho biết, tỉnh có thu nhập từ dịch vụ môi trường rừng rất lớn. Hằng năm, tỉnh thu hơn 310 tỷ đồng từ dịch vụ này. Với đơn giá khoảng 1,1 triệu đồng/ha, mức chi trả cho hộ dân đã đạt bình quân 5,4 triệu đồng/hộ/năm.
Riêng tại huyện Mường Tè, năm 2021 vừa qua, toàn huyện đã triển khai thực hiện giao khoán, với tổng diện tích rừng được chi trả dịch vụ môi trường rừng là 173.048 ha, với tổng số tiền đạt 169,532 tỷ đồng, bình quân mỗi hộ nhận khoán bảo vệ rừng được hưởng 18 triệu đồng/năm.
Còn tại tỉnh Điện Biên, tính riêng trong năm 2021, toàn tỉnh Điện Biên đã thu được hơn 241 tỷ đồng và chi trả 235 tỷ đồng từ nguồn thu này. Trong đó, nơi có mức chi trả cao nhất là hơn 1,2 triệu đồng/ha/năm.
Phó Chi cục trưởng Lâm nghiệp tỉnh Điện Biên Mai Hương cho biết, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng đã thật sự thu hút cộng đồng dân cư tham gia bảo vệ và phát triển rừng, từ đó nâng cao thu nhập cho các hộ dân có rừng. Đến nay, nhiều hộ gia đình tại các huyện Mường Chà, Điện Biên Đông, Nậm Pồ, Mường Nhé, Mường Lay... đã có cuộc sống thay đổi nhờ nguồn thu từ dịch vụ này. Từ đó, đồng bào các dân tộc có nhận thức cao về diện tích rừng mình nhận khoán và tập trung đầu tư mua sắm phương tiện, vật dụng để bảo vệ rừng hiệu quả.
Cùng với đó, các địa phương có rừng đã ngày càng nâng cao công tác phát triển rừng. Năm qua, tỉnh Điện Biên đã giao cho các địa phương thực hiện chỉ tiêu kế hoạch trồng mới rừng phòng hộ, với diện tích khoảng 150ha, trong đó huyện Điện Biên trồng mới được 20ha, Tuần Giáo 45ha, Mường Chà 35ha và Mường Ảng 50ha...
Toàn tỉnh đã và đang triển khai 17 dự án trồng rừng, tập trung phát triển bền vững kinh tế dưới tán rừng, thông qua các chương trình liên kết giữa hộ dân với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với các hợp tác xã và giữa các hợp tác xã, tổ hợp tác với các hộ dân có rừng. Từ đó, đẩy mạnh kinh tế lâm nghiệp thông qua việc trồng cây ăn quả, cây dược liệu, chăn nuôi gia súc, gia cầm, phát triển du lịch sinh thái dưới tán rừng.
Phát huy kết quả
Có thể nói, sau hơn 10 năm thực hiện quy định của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng, đến nay hoạt động này ngày càng được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, giúp nâng cao hiệu quả trong việc ủy thác tiền chi trả cho chủ rừng.
Đối với cơ sở sản xuất công nghiệp, hiện đã có gần 30 tỉnh xác định được danh sách các cơ sở sản xuất công nghiệp phải nộp tiền dịch vụ môi trường rừng, do đó thu từ cơ sở sản xuất công nghiệp đã đạt 43,03 tỷ đồng, chiếm 1,38% tổng thu cả nước.
Đối với dịch vụ nuôi trồng thủy sản được quy định thu theo hình thức trực tiếp, đến nay có một số tỉnh đã rà soát danh sách để triển khai ký hợp đồng đối với các cơ sở nuôi trồng thủy sản. Thời gian tới, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam (VNFF) sẽ tiếp tục hướng dẫn, đôn đốc các địa phương triển khai mạnh mẽ các loại dịch vụ mới theo đúng quy định
Thời gian qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách về bảo vệ và phát triển rừng đặc dụng, phòng hộ, đến nay đã thành lập gần 400 khu rừng đặc dụng, phòng hộ quản lý hơn 6,7 triệu ha rừng và đất lâm nghiệp tập trung ở khu vực có hệ sinh thái đặc trưng trên cạn, trên biển, đất ngập nước, giữ vai trò quan trọng trong phòng hộ đầu nguồn, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo vệ môi trường sinh thái, thông qua các hoạt động dịch vụ môi trường rừng, du lịch sinh thái góp phần tạo sinh kế, nâng cao đời sống người dân.
Lãnh đạo Tổng cục Lâm nghiệp cho biết, thời gian tới, ngành lâm nghiệp sẽ tiếp tục tập trung thu đúng, thu đủ tiền dịch vụ môi trường rừng trên cơ sở rà soát các hợp đồng ủy thác, các loại dịch vụ mới theo quy định, đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm các trường hợp còn chây ỳ, nợ đọng kéo dài.
Tiếp tục triển khai mạnh mẽ việc chi trả tiền dịch vụ môi trường rừng phi tiền mặt đến các chủ rừng, hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư thôn để nâng cao tính minh bạch, an toàn, hiệu quả trong công tác giải ngân; xây dựng kế hoạch triển khai dịch vụ hấp thụ và lưu giữ cac-bon đối với các tổ chức, cá nhân hoạt động sản xuất, kinh doanh gây phát thải khí nhà kính lớn theo quy định của Chính phủ.
Đối với công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường, thực hiện thường xuyên, liên tục từ Trung ương đến địa phương để kịp thời phát hiện xử lý những bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng.
Theo Tổng cục Lâm nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, trung bình mỗi năm, cả nước thu hàng nghìn tỷ đồng từ dịch vụ môi trường rừng. Năm 2022, Quỹ Bảo vệ và Phát triển rừng Việt Nam phấn đấu thu tiền dịch vụ môi trường rừng đạt 2.800 tỷ đồng; giải ngân cho chủ rừng đạt 70%, tương đương 1.998 tỷ đồng, đặc biệt là các hộ gia đình cá nhân, cộng đồng dân cư thôn bản; bảo đảm duy trì diện tích rừng trong lưu vực cung ứng của các chủ rừng được hưởng là 6,7 triệu héc-ta rừng (chiếm 45% diện tích rừng của cả nước) bằng nguồn tiền dịch vụ môi trường rừng...