Luật sư Phạm Ngọc LanVề căn cứ pháp luật:
Điều 32 Bộ Luật Dân sự năm 2015 quy định: Cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ: Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng; hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Theo khoản 3 Điều 66 Nghị định số 174/2013/NĐ-CP:Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác.
Như vậy, việc tự ý quay và sử dụng hình ảnh mà không có sự đồng ý của người đó làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh có thể được coi là hành vi vi phạm pháp luật. Người quay và phát tán clip có thể bị xử lý hành chính và hình sự tùy theo mức độ vi phạm. Trong trường hợp phát hiện các hành vi như trên hoặc tương tự thì công dân có thể quay lại clip và cung cấp tới cơ quan chức năng chứ không được tự ý phát tán trên mạng xã hội.
THIÊN ĐỨC