Hai cuộc ngược ngàn
Cô giáo Nguyễn Thị Ngọc sinh năm 1980, quê ở Bắc Ninh. Hiện, cô đang là Phó Hiệu trưởng Trường THPT DTNT Ka Lăng (huyện Mường Tè)- một trong 2 ngôi trường nội trú cấp tỉnh của Lai Châu.
17 năm trước (năm 2003), cô Ngọc tốt nghiệp khoa Tiếng Anh (Viện Đại học Mở tại Hà Nội). Đứng trước nhiều lựa chọn, cô quyết định vào Nam làm phiên dịch cho một công ty nước ngoài với mức lương khá cao tại thời điểm đó.
“Sau 2 năm, cuộc sống bắt đầu ổn định thì mẹ tôi gọi điện thông báo tôi trúng tuyển làm giáo viên ở Lai Châu. Lúc đó tôi mới biết suốt thời gian qua, mẹ vẫn âm thầm ròng rã khắp nơi nộp đơn xin cho tôi làm giáo viên. Vì bà biết đó là ước mơ của con gái. Chỉ có điều, mảnh đất Lai Châu như thế nào thì cả 2 mẹ con đều chưa đặt chân đến!”.
Ngày nhận công tác vào đầu tháng 9/2005, cô Ngọc phải "5 lần, 7 lượt" lên - xuống cả xe lẫn tàu. Từ Bắc Ninh, cô bắt xe lên Hà Nội, rồi đi tàu đến Lào Cai. Từ đây cô lại bắt xe khách lên trung tâm tỉnh Lai Châu (nay là thành phố Lai Châu). Nhận xong quyết định tuyển dụng, cô phải đi tiếp 1 chặng xe khách nữa mới đến được thị trấn Mường Tè - nơi được phân công nhiệm vụ.
Vì đa phần đường đi đèo dốc, cua gấp, lại phải đứng suốt hành trình nên người mệt rã rời. Khi vừa đến thị trấn Mường Tè, mở cửa xe bước xuống, làn khói bụi từ đường đất phả lên kín mặt. Thực tế hiện ra trước mắt lúc đó là một vùng quê miền núi nghèo nàn, heo hút, không có hàng quán, người qua lại đa phần là bà con đồng bào DTTS. Chút hoang mang, hụt hẫng thoáng qua trong đầu…
“Vừa đúng lúc đó, tôi bắt gặp hình ảnh mấy đứa trẻ nhem nhuốc, đầu trần, chân đất lủi thủi băng qua con dốc cao phía trước mặt. Giữa nghèo khó như thế mà trông đứa nào cũng hồn nhiên, tươi cười, tràn đầy nhựa sống khiến tôi tự an ủi mình, có thể các học trò ở đây sẽ cần đến mình hơn là ở thành phố đủ đầy”, cô Ngọc nhớ lại.
Sau 3 năm lên biên giới theo đuổi ước mơ làm giáo viên, cô Ngọc lại có cuộc “ngược ngàn” thứ 2. Lần này, đồng hành cùng cô đã có thêm chồng và cậu con trai hơn 1 tuổi.
Thầy Nguyễn Đức Hiếu, giáo viên cùng trường là chồng của cô giáo Ngọc nhớ lại: “Vào thời điểm năm 2008, lương giáo viên thấp lắm. Cưới xong thì vợ tôi lại có bầu và sinh cháu luôn nên cuộc sống vô cùng khó khăn. Khi nghe có thông tin chuẩn bị thành lập 1 trường mới trên xã biên giới Ka Lăng, vợ chồng tôi đã tâm sự với nhau, trên đó chắc các em học sinh đang cần giáo viên lắm. Mình tình nguyện xin lên công tác ở những vùng khó khăn như vậy thì đồng lương giáo viên cũng sẽ được Nhà nước đãi ngộ cao hơn, đảm bảo cuộc sống tốt hơn”.
Thế rồi thầy Hiếu một mình đi xe máy lên tiền trạm. Đường đi khó khăn, hiểm trở, đa phần phải ngồi xuồng trên sông Đà, rồi lại luồn rừng, ngược đồi dốc. Sau gần 1 ngày “mò mẫm”, Ka Lăng hiện diện trước mắt thầy là một vùng đất mây phủ bồng bềnh. Những ngôi nhà tạm bợ neo vào nhau giữa lưng chừng núi.
“Sau khi về nhà, điều đầu tiên anh nói với tôi là ở đó vất vả, cực khổ hơn hiện tại rất nhiều. Nhưng rồi chúng tôi cùng động viên nhau bằng suy nghĩ, thôi thì đằng nào cũng xa nhà, mà cuộc sống ở vùng đất trong lành như thế chắc sẽ thú vị lắm. Thế rồi cả 2 cùng viết đơn xin chuyển công tác”, cô Ngọc chia sẻ.
Đơn gửi đi lập tức được tiếp nhận ngay. Bởi thời đó, ở giữa vùng khó khăn như Ka Lăng, giáo viên có bằng cấp, chuyên môn như cô Ngọc là “của hiếm”. Cô Ngọc bảo, ngày ấy cả trường chỉ có hơn chục giáo viên. Cô vừa có chuyên môn ngoại ngữ, lại có năng khiếu tin học, nắm bắt cập nhật công nghệ thông tin nên được nhà trường tin tưởng, giao nhiều nhiệm vụ quan trọng.
Cột mốc đáng nhớ là năm 2009, Trường THPT Ka Lăng sang trang mới khi được chuyển đổi sang mô hình trường dân tộc nội trú. Từ đây, các em học sinh người DTTS được hưởng đầy đủ các chế độ, chính sách, ăn, nghỉ bán trú tại trường nên có thêm động lực học tập, chăm chỉ đến lớp hơn.
Năm 2011, khi đang nghỉ chế độ thai sản, tôi bất ngờ nhận được thông tin ngành Giáo dục đang làm quy trình, thủ tục bổ nhiệm cho mình làm Phó Hiệu trưởng. Sự tin tưởng của các cấp, cùng những tiến bộ của học trò mỗi ngày khiến tôi cảm thấy mình có giá trị, sống ý nghĩa hơn và quyết tâm vượt mọi khó khăn để gắn bó với mảnh đất này
Phá rào, phổ cập “tiếng Tây”
Thấm thoắt đã gần 20 năm kể từ buổi đầu đặt chân lên vùng đất biên viễn, cô Ngọc không thể quên những học sinh khóa đầu ở Ka Lăng. Thời đó, các em chưa được học tiếng Anh từ lớp dưới. Lên lớp 10, lần đầu tiên tiếp cận với môn mới nên học sinh chỉ biết ngơ ngác nhìn.
Cô Ngọc nhớ lại: “Lần đầu nghe học sinh gọi là “cô giáo tiếng Tây”, tôi nghe buồn cười nhưng cũng thấy rất thú vị. Hôm đầu lên lớp, sau màn chào hỏi, cô giáo bắt đầu thao thao giảng bài. Rồi thỉnh thoảng dừng lại hỏi các em có hiểu không thì cả lớp cùng gật đầu. Khi ấy tôi chắc mẩm các em đều hiểu bài. Cho đến hôm làm bài kiểm tra 1 tiết đầu tiên để đánh giá thì mới trật khấc”.
Chẳng là sau 15 phút khi giờ kiểm tra bắt đầu đã có học sinh mang bài lên nộp. Sau đó cả lớp lần lượt lên nộp bài hết khiến cô giáo rất ngạc nhiên. Nhìn vào những trang giấy trắng, cô không khỏi ngỡ ngàng… “Hôm đó, tôi đã dành toàn bộ thời gian còn lại của tiết học để trò chuyện cùng học sinh. Tôi hỏi mãi, các em mới nói là do không hiểu, không biết làm. Thì ra là thế! Học sinh ở đây rất nhút nhát, sợ cô giáo mới nên dù không hiểu cũng không dám nói. Và chỉ cần 1 em trong lớp làm thế nào là cả lớp làm theo như thế ấy”, cô Ngọc chia sẻ.
Sau “bài học” ấy, cả cô và trò đều rút kinh nghiệm cho bản thân. Cô Ngọc trò chuyện nhiều hơn để tạo sự gần gũi, thân thiện với học sinh. Từ đó giúp các em tự tin trên lớp cũng như mỗi giờ học. Nhiều lần gọi học sinh lên bảng, cô phát hiện học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số phát âm tiếng Anh rất chuẩn. Lấy ưu điểm này làm động lực, cô khích lệ tinh thần học sinh mỗi ngày.
Đáp lại sự nỗ lực của cô, mỗi bài kiểm tra của học sinh đã bắt đầu “kín chữ” và trau chút hơn. Đầu giờ lên lớp, các em phấn khích chào hỏi cô giáo bằng những câu tiếng Anh đơn giản. “Khóa đầu tiên ra trường có 33 học sinh và không em nào bị điểm liệt môn ngoại ngữ. Cô trò hạnh phúc chỉ biết ôm nhau khóc”, cô Ngọc nói.
Những khóa học sau đó, cô Ngọc có phương pháp và học trò đi vào nề nếp hơn. Số học sinh về trường theo học cũng ngày một nhiều thêm. Song, theo như cô Ngọc chia sẻ thì áp lực công việc lại giảm dần. Ngoài giờ học trên lớp, cô có thêm trợ lực từ chính học sinh của mình.
“Hiện nay trung bình mỗi năm, Trường THPT DTNT Ka Lăng có khoảng 400 học sinh theo học. Các em đều là con em đồng bào dân tộc thiểu số, trong đó đa phần là người Hà Nhì có truyền thống hiếu học cao. Vì cùng ở nội trú nên các em chủ yếu tự hỗ trợ nhau trong học tập. Nhiều năm rồi, tỷ lệ đỗ tốt nghiệp của nhà trường đều đạt 100%, khoảng 50% số này đỗ các trường Đại học. Hạnh phúc hơn khi nhiều em trong đó theo học các chuyên ngành liên quan đến Ngoại ngữ…”, cô Ngọc bộc bạch.
Thầy Nguyễn Mạnh Hùng, Hiệu trưởng Trường THPT DTNT Ka Lăng:
Không chỉ làm quản lý tốt mà cô Ngọc luôn có nhiều sáng tạo, kinh nghiệm quý về chuyên môn. Trong đó, nhiều sáng kiến kinh nghiệm đóng góp đắc lực vào sự phát triển của giáo dục miền núi. Cụ thể như: Giải pháp rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh DTTS; duy trì sĩ số học sinh dân tộc rất ít người; nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Anh bằng việc lồng ghép các trò chơi…