Dự thảo Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp có bố cục gồm 7 chương và 73 điều. Nội dung cơ bản của dự thảo Luật tập trung vào 5 chính sách nổi bật đã được Chính phủ, Quốc hội thông qua, gồm: Chính sách Phát triển công nghiệp quốc phòng (CNQP), công nghiệp an ninh (CNAN) theo hướng lưỡng dụng, bảo đảm sự tham gia của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân trong hoạt động CNQP, CNAN; hoàn thiện, sắp xếp, đổi mới hệ thống tổ chức CNQP, CNAN; thúc đẩy hoạt động Khoa học và Công nghệ phục vụ phát triển CNQP, CNAN; huy động nguồn lực cho phát triển CNQP, CNAN; bảo đảm hiệu quả hoạt động động viên công nghiệp (ĐVCN).
Theo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang, CNQP, CNAN và ĐVCN luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt, lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong quá trình xây dựng và phát triển; các quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng được thể hiện trong các văn kiện chính trị.
Hiện nay, cơ sở pháp lý chung điều chỉnh lĩnh vực CNQP, CNAN và ĐVCN cao nhất là Hiến pháp 2013 (Điều 14, Điều 68), Luật Quốc phòng 2018, Luật Công an nhân dân và các Luật chuyên ngành khác. Cơ sở pháp lý trực tiếp điều chỉnh lĩnh vực CNQP là Pháp lệnh Công nghiệp quốc phòng năm 2008, điều chỉnh lĩnh vực ĐVCN là Pháp lệnh Động viên công nghiệp năm 2003, điều chỉnh lĩnh vực CNAN là Nghị định số 63/2020/NĐ-CP và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Tuy nhiên, chưa có văn bản quy phạm pháp luật nào tầm Luật điều chỉnh trực tiếp về CNQP, AN và ĐVCN để cụ thể hóa các chủ trương của Đảng, nhất là luật hóa các cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển CNQP, AN; đồng thời, để thống nhất với các Luật ban hành trong thời gian qua quy định về vấn đề này như: Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Quy hoạch, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp… do đó đặt ra yêu cầu phải xây dựng Luật để điều chỉnh những quy định về CNQP, CNAN và ĐVCN bảo đảm đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật…
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phan Văn Giang cho biết, mục đích xây dựng Luật là nhằm hoàn thiện các cơ chế, chính sách đáp ứng nhu cầu xây dựng và phát triển CNQP, AN và ĐVCN trước mắt và lâu dài, bao gồm cả bảo đảm cơ chế, chính sách đặc thù cho những lĩnh vực đặc biệt quan trọng của CNQP, CNAN; phát huy vai trò chức năng, nhiệm vụ của CNQP, CNAN và ĐVCN trong bảo đảm vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân; tổ chức đổi mới, sắp xếp hệ thống cơ sở CNQP, cơ sở CNAN phù hợp đặc thù CNQP, CNAN, ĐVCN và gắn với phương thức tác chiến của Quân đội, nhiệm vụ của Công an, đáp ứng với kinh tế thị trường, hội nhập toàn cầu; bảo đảm tập trung, thống nhất, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về CNQP, CNAN và ĐVCN.
Đồng thời, huy động các thành phần kinh tế, doanh nghiệp ngoài lực lượng vũ trang nhân dân có tiềm lực về tài chính, KHCN tham gia đầu tư phát triển CNQP, AN và thực hiện nhiệm vụ ĐVCN, tham gia sản xuất, sửa chữa vũ khí trang bị kỹ thuật, phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ cho lực lượng vũ trang nhân dân; đẩy mạnh hợp tác, hội nhập quốc tế...
Trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh (UBQPAN) Lê Tấn Tới cho biết, UBQPAN nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật Công nghiệp quốc phòng, an ninh và động viên công nghiệp như đã nêu trong Tờ trình của Chính phủ nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về phát triển CNQPAN và ĐVCN; khắc phục những hạn chế, bất cập sau 15 năm thực hiện Pháp lệnh CNQP, 20 năm thực hiện Pháp lệnh ĐVCN và thực tiễn phát triển CNAN từ Đại hội Đảng lần thứ XI đến nay; nhằm tạo hành lang pháp lý đầy đủ, khả thi, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển bền vững đất nước.
Bên cạnh đó, UBQPAN đề nghị cơ quan soạn thảo dự án Luật tiếp tục rà soát, đánh giá, đầy đủ, toàn diện hơn các căn cứ về chính trị, pháp lý, thực tiễn; làm rõ mối quan hệ gắn kết giữa CNQP, CNAN và ĐVCN; đặt CNQPAN, ĐVCN trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia và cả nền kinh tế, trước yêu cầu xây dựng, tăng cường tiềm lực QPAN của đất nước để đánh giá toàn diện, làm rõ hơn về sự cần thiết ban hành Luật.
UBQPAN thấy rằng, hồ sơ dự án Luật đã được Chính phủ trình cơ bản đúng quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, nhiều nội dung được nghiên cứu, chuẩn bị kỹ lưỡng, công phu, đủ điều kiện báo cáo Quốc hội xem xét, cho ý kiến, nhưng cần nghiên cứu, tiếp tục rà soát, bổ sung đầy đủ dự thảo văn bản quy định chi tiết, đánh giá thêm tác động về chi phí, ngân sách để bảo đảm tính khả thi.
Về bảo đảm tính hợp hiến, sự phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, tính thống nhất của hệ thống pháp luật và tính khả thi, Chủ nhiệm Lê Tấn Tới cho biết, UBQPAN nhận thấy, nội dung của dự thảo Luật cơ bản phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng, phù hợp với Hiến pháp, bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật và cơ bản bảo đảm tính khả thi.
Tuy nhiên, đề nghị tiếp tục rà soát, thể chế hóa đầy đủ, toàn diện quan điểm chỉ đạo của Đảng, với các mục tiêu, yêu cầu như: Xây dựng, phát triển CNQP, CNAN tự lực, tự cường, hiện đại, lưỡng dụng;… trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia…