Cơ sở hạ tầng vùng đồng bào DTTS và miền núi được đầu tư giúp người dân phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. (Trong ảnh: Một góc trung tâm huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên)Hoàn thành sứ mệnh vẻ vang
Việt Nam có 54 dân tộc, trong đó có 53 DTTS. Do nhiều yếu tố khách quan, điều kiện kinh tế - xã hội của nhiều DTTS còn hạn chế, thấp hơn mặt bằng chung cả nước. Vì thế, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn nhất quán chủ trương, đường lối các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Trong Hiến pháp đầu tiên, được Quốc hội thông qua ngày 09/11/1946 đã ghi: “Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phương diện để chóng tiến kịp trình độ chung” (Điều 8). Hiến pháp năm 2013 đã kế thừa và phát triển chủ trương này, trong đó hiến định: “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước” (khoản 4, Điều 5).
Quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, từ khi thành lập nước đến nay, công tác dân tộc (CTDT), thực hiện chính sách dân tộc (CSDT) được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Cơ quan CTDT đã được thành lập, với tổ chức tiền thân là Nha Dân tộc thiểu số thuộc Bộ Nội vụ, chiểu theo Sắc lệnh số 58/SL ngày 03/5/1946 của Chủ tịch Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; đến năm 1947 thành lập Tổ Nghiên cứu dân tộc thuộc Ban Mặt trận - Dân vận Trung ương. Từ năm 1955, có 2 cơ quan CTDT, gồm: Tiểu ban Dân tộc Trung ương dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Trung ương (theo Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 29/1/1955 của Ban Bí thư) và Ban Dân tộc Trung ương thuộc Chính phủ (theo Nghị quyết số 447-TTg ngày 01/2/1955 của Thủ tướng Chính phủ).
Kỳ họp thứ tám Quốc hội khóa I (diễn ra từ ngày 16 đến ngày 29/02/1958) đánh dấu bước phát triển mới của cơ quan CTDT. Tại kỳ họp này, Quốc hội đã thông qua đề án thành lập UBDT thuộc Hội đồng Chính phủ, có quyền hạn ngang Bộ. Ngày 06/3/1959, UBDT với vai trò là cơ quan ngang Bộ chính thức được thành lập theo Nghị định số 102/TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Theo Nghị định số 102/TTg, UBDT có nhiệm vụ nghiên cứu tình hình các DTTS, giúp Chính phủ vạch các CSDT; kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện CSDT và giúp các Bộ trong việc nghiên cứu và chỉ đạo thực hiện những chính sách cụ thể phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội các vùng đồng bào DTTS. UBDT có quyền hạn ra thông tư giải thích đường lối, chính sách và các chủ trương của Chính phủ đối với vùng đồng bào DTTS và hướng dẫn các cấp hành chính địa phương thi hành đường lối, chính sách và các chủ trương về CTDT, thực hiện CSDT.
Trải qua 79 năm (từ tổ chức tiền thân là Nha Dân tộc thiểu số) đến tháng 2/2025, cơ quan UBDT đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh là cơ quan trực tiếp tham mưu cho Trung ương Đảng, Chính phủ về lĩnh vực CTDT và tham mưu, xây dựng, trình cấp có thẩm quyền ban hành hệ thống CSDT; tổ chức theo dõi đôn đốc, kiểm tra các ngành, các cấp trong việc thực hiện CSDT ở vùng đồng bào DTTS và miền núi. Với vai trò của cơ quan UBDT, hệ thống CSDT hiện đã bao phủ trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, góp phần quan trọng kéo gần khoảng cách phát triển giữa miền núi với miền xuôi, giữa các dân tộc, nâng cao đời sống của đồng bào các DTTS.

Với khối đại đoàn kết, trong đó có đoàn kết các dân tộc, đoàn kết các tôn giáo, chúng ta đã cùng nhau vượt qua tất cả mọi khó khăn, thách thức, góp phần vào những thành tựu từ khi có Đảng và khi thành lập đất nước”.
Thủ tướng Phạm Minh Chính phát biểu tại Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập Bộ Dân tộc và Tôn giáo ngày 01/3/2025
Tiếp nối sứ mệnh củng cố khối đại đoàn kết
Ngày 18/02/2025 đánh dấu mốc son mới trên hành trình vẻ vang của cơ quan CTDT khi Quốc hội khóa XV quyết nghị thành lập Bộ Dân tộc và Tôn giáo tại Nghị quyết số 176/2025/QH15; trên cơ sở UBDT tiếp nhận thêm chức năng quản lý nhà nước về tín ngưỡng, tôn giáo từ Bộ Nội vụ. Bộ Dân tộc và Tôn giáo được thành lập không chỉ tiếp nhận thêm chức năng, nhiệm vụ mà còn khẳng định vị thế cũng như trách nhiệm của cơ quan CTDT trong thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về lĩnh vực dân tộc, tôn giáo; củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tại Lễ công bố Nghị quyết của Quốc hội về việc thành lập Bộ Dân tộc và Tôn giáo được tổ chức ngày 01/3/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã khẳng định, trong tình hình mới, điểm tựa của đất nước ta vẫn là tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, tình dân tộc, nghĩa đồng bào. Thủ tướng nhấn mạnh, Bộ Dân tộc và Tôn giáo phải là trung tâm, hình mẫu về đoàn kết và lan tỏa tinh thần đoàn kết, thống nhất, tạo động lực, cảm hứng cho sự phát triển bình đẳng, đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo.
Với chiều sâu đoàn kết đã được bồi đắp trên hành trình 79 năm, cơ quan CTDT với tên gọi mới là Bộ Dân tộc và Tôn giáo, sẽ hoàn thành nhiệm vụ được người đứng đầu Chính phủ giao. Ngay từ khi thành lập, với tổ chức tiền thân là Nha Dân tộc thiểu số (năm 1946) và Tổ nghiên cứu dân tộc (năm 1947), cơ quan CTDT đã hoàn thành xuất sắc công tác vận động đồng bào các dân tộc huy động sức người, sức của ủng hộ kháng chiến; vận động các tộc trưởng, tù trưởng, phìa tạo,... đi theo kháng chiến, đoàn kết trong Mặt trận thống nhất để “Chín năm làm một Điện Biên/Nên vành hoa đỏ nên thiên sử vàng”, với Chiến thắng Điện Biên Phủ “lững lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; kế đó là Đại thắng mùa Xuân 30/4/1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Sợi dây đoàn kết giữa các dân tộc càng bền chặt hơn với việc cơ quan CTDT qua các thời kỳ, với các tên gọi khác nhau đã hoàn thành trọng trách tham mưu cho Đảng, Nhà nước về lĩnh vực CTDT, thực hiện CSDT, với mục tiêu bảo đảm hỗ trợ đồng bào các dân tộc “tiến kịp trình độ chung” đã được ghi trong Hiến pháp năm 1946. Kể từ đó đến nay, dấu ấn của cơ quan CTDT in đậm trọng hệ thống chính sách đầu tư, hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng bào DTTS và miền núi; được ban hành nhằm giải quyết cơ bản các nhu cầu bức thiết trong đời sống của đồng bào DTTS, tạo động lực để phát triển nhanh, bền vững vùng đồng bào DTTS và miền núi.
Thành quả là, vùng đồng bào DTTS và miền núi đã có những bước tiến vượt bậc về mọi mặt, nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Tại thời điểm năm 1952, trong Nghị quyết về “Chính sách dân tộc của Đảng ta hiện nay”, Bộ Chính trị đánh giá: “Kinh tế miền rừng núi là kinh tế tự nhiên, có tính chất tự cung tự cấp. Lối canh tác còn thô sơ, dụng cụ thiếu thốn, tiểu công nghệ và thương mại chưa phát triển”. Đến hết năm 2024, với cơ sở hạ tầng được đầu tư, vùng đồng bào DTTS và miền núi đã cơ bản hòa vào nền kinh tế hàng hóa. Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn vùng khá cao, trong đó nhiều khu vực có mức tăng cao hơn bình quân chung cả nước (Tây Bắc tăng bình quân 8,0%/năm; Tây Nguyên tăng 7,5%/năm; Tây Nam Bộ tăng 7,0%/năm). Sự phát triển đó của vùng đồng bào DTTS và miền núi in đậm dấu ấn của cơ quan CTDT, với hành trình 79 năm đầy vẻ vang.