Nhà báo Hùynh Văn Tiểng, giữa là nhạc sĩ Lưu Hữu Phước và lão thành cách mạng Mai Văn BộĐầu tháng 8/2025, trong buổi kỷ niệm 80 năm Ngày truyền thống Công an Nhân dân, ca sĩ Mỹ Tâm đã cất tiếng hát và kêu gọi khán giả cùng hòa giọng ca khúc này, để rồi cả không gian như bừng sáng bởi khí thế hừng hực, bởi bước chân tuổi trẻ đang đồng lòng tiến về phía trước - cho tương lai của chính mình và cho đất nước.
“Lên Đàng” mang nhịp điệu rộn ràng, sôi động, dễ dàng được hát vang trong lớp học, trong những buổi giao lưu văn nghệ hay tại các sự kiện trọng đại của Tổ quốc. Nhưng vì sao ca khúc này lại được thế hệ trẻ yêu mến đến thế? Ai là tác giả của nó? Hãy cùng ngược dòng thời gian để tìm hiểu về bài hát đặc biệt ấy.
Trong khuôn viên nghĩa trang TP. Hồ Chí Minh, giữa những bia mộ xếp hàng lặng lẽ, có một tấm bia khiến người ta dừng chân thật lâu. Trên đó, mặt trước bia mộ khắc tên tuổi, năm tháng của người quá cố, mặt sau hiện rõ những câu ca bất tử: “Lên Đàng! Ta người Việt Nam. Nhìn non sông huy hoàng…”. Đó là phần mộ của nhà thơ, nhà cách mạng Huỳnh Văn Tiểng- người đã để lại cho tuổi trẻ Việt Nam một khúc tráng ca vượt thời gian. Khắc lời hát trên bia đá, hậu thế đã tìm được cách tưởng niệm đẹp đẽ nhất: để bài ca sống mãi, để lý tưởng của một đời người tiếp tục ngân vang.
Tuổi trẻ nắm tay nhau hát "Lên Đàng".Theo Wikipedia, trước cách mạng tháng 8 năm 1945, ở Sài Gòn, Huỳnh Văn Tiểng viết những vần thơ kêu gọi tuổi trẻ: Rời bỏ sự an nhàn, dấn thân cho non sông. Nhạc sĩ Lưu Hữu Phước phổ nhạc cho bài thơ ấy, dồn vào từng nốt nhạc nhịp bước hừng hực của tuổi hai mươi. Nhạc cách mạng Mai Văn Bộ góp phần chỉnh sửa câu chữ, làm cầu nối để tác phẩm lan tỏa. Thế là “Lên Đàng” ra đời, mang khí phách và niềm tin của cả một thế hệ. Không chỉ là một bài ca, nó trở thành tiếng gọi thiêng liêng, một bản tuyên ngôn nghệ thuật. Nhà nghiên cứu văn hóa Trần Văn Khê từng khẳng định: “Trong âm nhạc Việt Nam thế kỷ XX, “Lên Đàng” là một trong những tác phẩm tiêu biểu, kết hợp được khí phách dân tộc với khát vọng thanh niên".
Kể từ khi ra đời đến nay, “Lên Đàng”, bài hát vang luôn lên trong các buổi sinh hoạt của phong trào thanh niên. Giai điệu hào hùng và lời ca khích lệ khiến mỗi người cất tiếng hát đều thấy mình đang bước vào hàng ngũ, đang hòa vào dòng chảy cách mạng. Nhiều lão thành cách mạng Sài Gòn xưa kể lại: “Lên Đàng” như một lá cờ tinh thần, một vũ khí mạnh mẽ không kém gì lời hịch.
Giá trị của “Lên Đàng” nằm ở chỗ: Nó nói đúng, nói trúng tâm trạng và khát vọng của lớp thanh niên tiền khởi nghĩa. Lời ca trong sáng, đầy khí phách, gieo vào lòng người niềm tin rằng tuổi trẻ phải đi đầu, phải hy sinh để mở ra bình minh dân tộc. Âm nhạc của Lưu Hữu Phước hừng hực, khỏe khoắn, tạo nên sức lan tỏa mạnh mẽ. Chính vì thế, giới nghiên cứu âm nhạc gọi đây là “bản quốc ca của thanh niên Việt Nam thời tiền khởi nghĩa”. Không chỉ ở Nam Bộ, mà “Lên Đàng” cũng được hát vang khắp mọi miền đất nước như một tiếng kèn tập hợp thanh niên đoàn kết vì đất nước.
Trong các hoạt động của tuổi trẻ, "Lên Đàng" là ca khúc vang vọng suốt hành trình.Huỳnh Văn Tiểng, người gieo những hạt chữ đầu tiên cho khúc ca ấy, cả đời gắn bó với phong trào thanh niên và sự nghiệp cách mạng. Ông không chỉ là nhà thơ, mà còn là nhà báo, nhà hoạt động văn hóa. Sau này, khi giữ nhiều trọng trách trong bộ máy chính quyền cách mạng, ông vẫn giữ ngọn lửa tuổi trẻ của năm 1944. Ông từng nói: “Mỗi khi nghe lại “Lên Đàng”, tôi thấy như mình vẫn còn tuổi hai mươi, vẫn đang cùng bạn bè sải bước trong dòng người ra trận.” Có thể nói, Huỳnh Văn Tiểng đã sống trọn vẹn với những gì mình viết. Ở ông, thơ và đời không tách rời, lý tưởng đã biến thành hành động.
Vì thế, khi ông mất, gia đình và đồng chí đã chọn khắc câu hát “Lên Đàng” trên bia mộ. Đó không chỉ là một sự tưởng niệm cá nhân, mà là lời khẳng định: Huỳnh Văn Tiểng ra đi trong tiếng hát của chính mình, trong khúc tráng ca mà ông đã viết cho dân tộc. Tấm bia đá nhờ vậy trở thành một tượng đài sống. Nó không lạnh lẽo, vô tri, mà ngân vang âm nhạc. Đến viếng mộ ông, ta không chỉ tưởng nhớ một con người, mà còn được nhắc nhở về một thế hệ thanh niên đã sống và hy sinh vì lý tưởng lớn lao.
Ngày nay, sau hơn tám thập kỷ, “Lên Đàng” vẫn được hát trong những dịp trọng đại. Ở trường học, trong các hoạt động của tuổi trẻ, bài hát vẫn là tiếng gọi hào hùng cho học sinh, sinh viên. Trong các chương trình văn nghệ cách mạng, nó vẫn làm khán giả rưng rưng khi nhớ về một thời tuổi trẻ lên đường. Nhạc sĩ Phạm Tuyên từng nhận xét trong một chương trình truyền hình giao lưu ca khác cách mạng do HTV tổ chức: “Lên Đàng” có sức sống lâu bền vì nó kết tinh được hai yếu tố: âm nhạc giàu tính cổ vũ và lời ca mang lý tưởng muôn đời của thanh niên. Bất cứ thời nào, thanh niên cũng cần một tiếng gọi như thế".
Đứng trước bia mộ Huỳnh Văn Tiểng, nhìn những câu hát khắc trên đá, ta hiểu rằng sự bất tử không chỉ nằm trong máu xương đã ngã xuống, mà còn nằm trong những vần thơ, giai điệu đã gieo vào lòng dân tộc. Huỳnh Văn Tiểng đã khép lại cuộc đời, nhưng “Lên Đàng” còn đó, sống cùng đất nước, sống cùng tuổi trẻ Việt Nam. Cái chết, nhờ âm nhạc, đã biến thành sự tiếp nối. Một thế hệ đã đi qua, nhưng khúc ca của họ vẫn đang mở đường cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Cảm xúc từ bài ca Lên Đàng chính là cảm xúc từ sự bất tử. Bởi từ ngôi mộ lặng im ấy, vẫn vang vọng lời gọi: “cùng tung bay chí trai” . Lời gọi không bao giờ tắt, vẫn dẫn lối cho lớp lớp bước chân tiếp nối lên đường. Và như thế, Huỳnh Văn Tiểng không chỉ có một ngôi mộ, ông còn có một tượng đài âm nhạc, khắc sâu trong tâm khảm dân tộc.