Bài 2: Hiệu quả từ một dự án chăn nuôi
Để thực hiện Dự án đảm bảo theo đúng kế hoạch, từ việc chọn đối tượng tham gia cũng được triển khai rất chặt chẽ. Ban Chỉ đạo Dự án đã lựa chọn đủ 82 hộ tham gia, trong đó người DTTS là 80 hộ, đạt 97,6%. Các hộ tham gia Dự án phải đáp ứng đủ tiêu chí ban đầu của Dự án đề ra như: có diện tích vườn rộng từ trên 300m2, cam kết làm chuồng trại chăn nuôi gia cầm với diện tích trên 80m2, chuồng cách xa nhà tối thiểu 10m, có đủ điều kiện kinh tế để đối ứng vốn và nhân lực chăn nuôi…
Là một trong những hộ tham gia Dự án, anh Bùi Văn Khương, thôn Đồng Rừng, xã Kim Tiến, huyện Kim Bôi cho biết: “Gia đình tôi nuôi gà được hơn 6 năm rồi, nhưng khoảng 4 năm trở lại đây, khi được áp dụng KHCN thì việc chăn nuôi mới phát triển như hiện nay. Trước đây trang trại nhỏ, nuôi được khoảng 100-200 con gà và không có kỹ thuật nuôi, khi xảy ra dịch cúm cũng không biết cách phòng ngừa. Từ khi tham gia Dự án, được hỗ trợ về giống, kỹ thuật chăn nuôi nên số lượng gà tăng lên hàng chục lần. Sau thời gian áp dụng kỹ thuật thành công, gia đình tôi đã chuyển giao công nghệ cho các hộ gia đình khác ở các xã lân cận như: Đông Bắc, Độc Lập...”. Sau khi áp dụng công nghệ vào chăn nuôi, đến nay gia đình anh Khương thu về hơn 80 triệu đồng/năm.
Không chỉ có gia đình anh Khương, bà con thuộc huyện Kim Bôi đã được tiếp cận với những kỹ thuật nuôi gà khoa học, biết cách phòng trừ dịch bệnh... Đặc biệt là xây được mô hình khép kín, có đầu ra cho sản phẩm, đồng thời chủ động được con giống.
Những sản phẩm mang lại như gà thịt, trứng có giá trị kinh tế cao đã thu hút người dân chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm kinh tế-xã hội của địa phương, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất, tăng thu nhập cho các hộ nông dân, thúc đẩy phát triển sản xuất hàng hóa trong lĩnh vực chăn nuôi. Từ đó sẽ hình thành những vùng sản xuất hàng hóa chăn nuôi tập trung và phát triển bền vững (cung cấp trứng gà, vịt, thịt gà cho các lái buôn quanh năm).
Đồng thời, khi áp dụng KHCN vào chăn nuôi, sản xuất, chất thải được xử lý đúng quy trình, hạn chế ô nhiễm môi trường. Chuồng trại chăn nuôi được xây dựng đúng quy cách, cách xa nhà ở, nguồn nước sinh hoạt theo đúng quy định của ngành chăn nuôi, đảm bảo vệ sinh môi trường.
TS. Nguyễn Hồng Vĩ, Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách dân tộc (Học viện Dân tộc), Chủ nhiệm Dự án cho biết: “Dự án được triển khai với mục đích chuyển giao và tiếp nhận quy trình kỹ thuật chăn nuôi, ấp trứng, thú y, vệ sinh phòng bệnh cho gà đẻ trứng Ai Cập lai, gà sinh sản hướng thịt, gà ri lai nuôi thịt, vịt Triết Giang tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình. Trong quá trình thực hiện Dự án đã đào tạo và tập huấn kỹ thuật chăn nuôi, ấp trứng, vệ sinh phòng bệnh gia cầm cho 3 kỹ thuật viên; tập huấn cho 250 hộ dân vùng Dự án về kỹ thuật chăn nuôi gia cầm quy mô nông hộ”.
Cũng từ kết quả Dự án đem lại, TS. Nguyễn Hồng Vĩ đã đưa ra sáng kiến xây dựng hệ thống ấp trứng gia cầm. Sáng kiến đã nâng cao nhận thức của người dân huyện Kim Bôi về chăn nuôi an toàn sinh học. Những hộ dân tham gia Dự án nắm bắt được quy trình công nghệ chăn nuôi, đồng thời nắm được kỹ thuật về ấp trứng gia cầm, từ đó định hướng chăn nuôi nông hộ phù hợp với điều kiện kinh tế hộ và địa phương mình.
Từ những kết quả của Dự án mang lại, có thể khẳng định sự đóng góp của KHCN trong việc đưa tiến bộ kỹ thuật áp dụng vào sản xuất; nâng cao năng suất, chất lượng đàn gia cầm là rất lớn, góp phần quan trọng vào công cuộc xóa đói giảm nghèo cho đồng bào DTTS, xây dựng nông thôn mới tại địa phương.
Tiến sĩ Nguyễn Cao Thịnh, Phó Vụ trưởng Vụ Tổng hợp, Thường trực Hội đồng KHCN của UBDT: Có thể khẳng định, Chương trình phối hợp giữa UBDT với Bộ Khoa học và Công nghệ đạt được tính thiết thực và hiệu quả thực sự, thể hiện trên một số khía cạnh như: Các hoạt động khoa học và công nghệ ngày càng đa dạng, trong đó ưu tiên hướng đến đối tượng và vùng DTTS, miền núi ngày càng nhiều hơn; Nguồn lực cho các hoạt động KHCN tăng mạnh, trong đó có nguồn lực tài chính cho UBDT cũng như cho vùng DTTS và miền núi; Tạo ra sự chuyển động, gắn kết, phối hợp chặt chẽ từ Trung ương (2 cơ quan) và đến địa phương các sở KHCN, Ban Dân tộc). Bên cạnh đó, năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý và nghiên cứu khoa học của UBDT được tăng cường.
HỒNG MINH